skip to Main Content

Vấn đề nêu “một lô” ý lễ trong kinh nguyện Thánh Thể (P2)

Vấn đề nêu “một lô” ý lễ trong kinh nguyện Thánh Thể (P2)

III. NÊU MỘT LOẠT Ý LỄ GIỮA KINH NGUYỆN THÁNH THỂ

Trong nghi thức Đông phương, phần Memento nằm bên ngoài Kinh nguyện Thánh Thể. Còn bên Tây phương, Memento nằm trong Kinh nguyện Thánh Thể dù rằng chỉ xuất hiện mãi sau này. Bởi vì như Josef Jungmann cho biết, đến đầu thế kỷ V, một số những phần như Communicantes (Hiệp cùng Hội Thánh), Hanc igitur (Vì vậy, Lạy Chúa), Memento etiam (Xin nhớ đến) và Nobis quoque (Cả chúng con nữa) vẫn chưa thấy xuất hiện trong Lễ quy Roma.1 Cũng theo tác giả Josef Jungmann, kinh tưởng niệm người chết (Memento etiam) có lẽ đã được thêm vào dưới thời Đức Gregôriô Cả (590-604). Thật ra, hồi đầu thế kỷ VIII, người ta vẫn không thấy Memento etiam trong cuốn Sacramentarium Gregorianum (vẫn được gọi là cuốn Hadrianum) ngoại trừ trong những tài liệu khác như cuốn Sách lễ Bobbio (Ái Nhĩ Lan).2 Như vậy, không phải mọi cử hành Thánh Thể của Giáo Hội thưở đầu đều có lời nguyện cho các tín hữu đã qua đời. Nhưng nay, đây là một phần thông thường trong các Kinh nguyện Thánh Thể. Các Anaphora đã phát triển việc cầu nguyện cho người sống nhiều hơn.

Tuy nhiên, Memento không đồng nghĩa với đọc hàng loạt ý lễ cụ thể. Thực hành đọc hàng loạt ý lễ cụ thể chen vào trong Kinh nguyện Thánh Thể có thể nảy sinh do những nguyên nhân sau:

* Thứ nhất, hiểu nhầm bản văn chữ đỏ của Nghi thức Thánh lễ;

* Thứ hai, có thể do ảnh hưởng của Thánh lễ “đọc” hay Thánh lễ “thing lặng” và Thánh lễ của tư tế từ thời Trung cổ mà trong đó Thánh lễ trở thành cử hành của vị linh mục hơn là hành vi của toàn thể cộng đoàn Dân Chúa. Dân chúng trở thành những quan sát viên hơn là người tham dự phụng vụ. Hậu quả là, một mặt, dân chúng tập trung hướng đến thống hối, đến ý lễ cá nhân, đến cầu nguyện cho những người thân yêu đã qua đời nhiều hơn…nhằm giảm thiểu thời gian những người thân yêu này bị trừng phạt nơi luyện ngục. Mặt khác, những ngày trong tuần, lễ “cầu hồn” hầu như lấn át các Thánh lễ khác, Thánh lễ “áo đen” hàng ngày đã trở nên quá quen thuộc đối với nhiều người sống trước Công đồng Vatican II;3

* Thứ ba, khi tham dự vào phần Kinh nguyện Thánh Thể nói riêng và phụng vụ Thánh lễ nói chung, các tín hữu xin lễ có thói quen ngóng đợi vị tư tế đọc tên “linh hồn” người thân của mình.

1] Ý lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời

Không phải Kinh nguyện Thánh Thể nào cũng có phần dành riêng để tư tế có thể thêm vào ý nguyện cầu cho người quá cố một cách cụ thể (chẳng hạn Kinh nguyện Thánh Thể IV; Kinh nguyện Thánh Thể Hòa giải I và II; Kinh nguyện Thánh Thể cho Trẻ em mẫu số III). Điều này phản ánh ý định của Giáo Hội là nếu vị tư tế sử dụng thay đổi 13 mẫu Kinh nguyện Thánh Thể được nêu ra trong Sách lễ Roma4 thì ắt hẳn, ngài không thể ngày nào cũng chen vào Kinh nguyện Thánh Thể ý lễ cầu cho những người đã ly trần. Sách lễ chỉ có sẵn các Bản văn hay công thức để có thể nêu cụ thể tên của những tín hữu đã qua đời trong 9 Kinh nguyện Thánh Thể còn lại, chẳng hạn như trong Kinh nguyện Thánh Thể I: “Lạy Chúa, xin cũng nhớ đến (những) tôi tớ Chúa là T… (và T…) được ghi dấu đức tin, đã ra đi trước chúng con và đang nghỉ giấc bình an;”5 trong Kinh nguyện Thánh Thể II: “Xin nhớ đến tôi tớ Chúa là T… mà (hôm nay) Chúa đã gọi ra khỏi đời này về với Chúa. Xin ban cho kẻ đã chết như Con Chúa, thì cũng được sống lại như Người;6 hay trong Kinh nguyện Thánh Thể III: “Lạy Cha, xin nhớ đến (những) tôi tớ Cha là T., mà (hôm nay) Cha đã gọi ra khỏi đời này về với Cha. Xin ban cho kẻ đã chết như Con Cha, thì cũng được sống lại như Người, khi Người cho xác kẻ chết sống lại từ bụi đất và cho thân xác mọn hèn chúng con trở nên giống thân xác sáng láng của Người”…7

Tuy nhiên, ngoại trừ trong Kinh nguyện Thánh Thể I, lời cầu này không phải được soạn ra để đọc hàng ngày hay đọc trong bất cứ Thánh lễ nào có người xin lễ cầu cho thân nhân của họ đã qua đời. Chữ đỏ của Nghi thức Thánh lễ chỉ rõ: chúng chỉ được sử dụng (trích nguyên văn) “trong Thánh lễ cầu cho người đã qua đời, có thể thêm”8 (Kinh nguyện Thánh Thể II); “Khi dùng Kinh nguyện Thánh Thể này (Kinh nguyện Thánh Thể III) trong lễ cầu cho người đã qua đời, có thể thay thế như sau.”9 Điều này có nghĩa là, phần chọn lựa đó chỉ được dành riêng trong Thánh lễ cầu cho người quá cố mà thôi – như lễ An táng hay Giỗ đầu – những dịp tưởng nhớ đặc biệt và ý nghĩa, đến độ, nếu không vì lý do bậc lễ phụng vụ, chủ tế sẽ sử dụng ngay Bản văn hay Bài lễ “Cầu cho các tin hữu đã qua đời” ….10 Nói cách khác, khi sử dụng Bài lễ “Cầu cho các tín hữu đã qua đời” (I. An táng; II. Giỗ; III. Các dịp khác; IV. Lời nguyện cho những trường hợp đặc biệt; V. An táng trẻ em),11 chúng ta mới đọc phần được đóng khung chen giữa Kinh nguyện Thánh Thể để cầu cho người đã ly trần.

Với Bản văn hay Bài lễ như thế, chúng ta sẽ thấy một dòng chảy suốt từ đầu cho đến cuối Thánh lễ. Chẳng hạn, nếu dùng Bài lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời (ví dụ Bản văn lễ An táng ngoài mùa Phục sinh A sau đây), ngay từ Lời nguyện Nhập lễ, chủ tế đã đọc cụ thể danh tánh: “Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, chỉ có Chúa mới thắng nổi sự chết và ban cho chúng con sự sống muôn đời. (Hôm nay) OBACE. T. là người tín hữu Chúa….”. Qua Lời nguyện Tiến lễ cũng vậy, chủ tế cầu xin: “Lạy Chúa, chúng con dâng những lễ vật này để cầu cho OBACE T được hưởng ơn cứu độ…”. Cho nên, khi tới phần Kinh nguyện Thánh Thể, chủ tế thoải mái chọn đọc: “Xin nhớ đến tôi tớ Chúa là T… mà (hôm nay) Chúa đã gọi ra khỏi đời này về với Chúa. Xin ban cho kẻ đã chết như Con Chúa, thì cũng được sống lại như Người” mà không sợ lạc ra khỏi dòng chảy. Cho tới Lời nguyện Hiệp lễ, dòng chảy vẫn tiếp tục hướng đến việc cầu cho người quá cố: “Ước chi nhờ bí tich này, người anh (chị) em tín hữu chúng con là T… được vào Nước Chúa dự tiệc vui muôn đời”. Trong trường hợp này, quá lắm vị tư tế chỉ có thể chen vào các Lời nguyện Nhập lễ, Lời nguyện Tiến lễ, Lời nguyện Hiệp lễ và tất nhiên giữa Kinh nguyện Thánh Thể một hay hai tên của tín hữu qua đời mà thôi (Loại ý lễ thứ hai).

Việc đọc một loạt tên các linh hồn đã không được phụng vụ đặt ra vì sẽ làm cho các Lời Nguyện (Nhập lễ, Tiến lễ, Hiệp lễ) kéo dài lê thê. Nhất là, nếu xướng một lô y lễ cầu cho cả người sống lẫn người chết xen giữa Kinh nguyện Thánh Thể sẽ làm cho lời kinh long trọng này bị loãng ra, nghĩa là tỉ lệ dành cho phần cầu cho người quá cố áp đảo những phần khác quan trọng hơn rất nhiều. Mục tiêu của phụng vụ nói chung hay của Thánh lễ nói riêng là: tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa con người, cho nên Thánh lễ không chỉ tập trung vào chuyện cầu cho những người đã qua đời mà thôi.

Nếu cử hành Thánh lễ với Bài lễ không phải “Cầu cho người đã qua đời”,12  vị tư tế nên chọn những cách thức nêu các ý lễ như đã trình bày ở trên. Nghĩa là, cần tránh chen vào giữa Kinh nguyện Thánh Thể (trừ Kinh nguyện Thánh Thể I) công thức cầu cho người quá cố một cách cụ thể. Việc đọc một lô “tên các linh hồn” xen giữa Kinh nguyện Thánh Thể sẽ làm ngắt quãng dòng chảy của buổi cử hành phụng vụ Thánh Thể hôm ấy. Thật ra, trong mọi Kinh nguyện Thánh Thể, Giáo Hội đều có phần cầu cho hết thảy những người đã ly trần:

“Lạy Chúa, chúng con xin Chúa thương ban cho các tín hữu ấy, và tất cả mọi người, đặc biệt các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân bằng quyến thuộc chúng con đã an nghỉ trong Ðức Kitô, được vào nơi hạnh phúc sáng láng và bình an” (Kinh nguyện Thánh Thể I).

“Xin Chúa cũng nhớ đến anh chị em chúng con đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại, và mọi người, đặc biệt các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân bằng quyến thuộc chúng con đã ly trần trong tình thương của Chúa. Xin cho hết thảy được vào hưởng ánh sáng Tôn Nhan Chúa” (Kinh nguyện Thánh Thể II).

“Xin Cha thương đến anh chị em chúng con đã ly trần, và mọi người, đặc biệt các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân bằng quyến thuộc chúng con đã sống đẹp lòng Cha mà nay đã lìa cõi thế. Xin thương nhận hết thảy vào Nước Cha, nơi chúng con hy vọng sẽ tới để cùng nhau tận hưởng vinh quang Cha muôn đời, nhờ Ðức Kitô, Chúa chúng con, nhờ Người, Cha rộng ban mọi ơn lành cho thế gian” (Kinh nguyện Thánh Thể III).

“Xin Chúa cũng nhớ đến những người đã qua đời trong bình an của Ðức Kitô, đặc biệt các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân bằng quyến thuộc chúng con, cùng tất cả mọi người quá cố mà chỉ một mình Chúa biết lòng tin của họ” (Kinh nguyện Thánh Thể IV).

Chính vì vậy, Giáo Hội khuyên rằng: “…chỉ nên cử hành lễ cầu cho những người qua đời cách chừng mực, vì bất cứ Thánh lễ nào cũng được dâng cầu cho kẻ sống và người quá cố, và Kinh nguyện Thánh Thể luôn nhớ đến các kẻ qua đời.13 Giáo Hội cũng mong ước các tín hữu tránh rơi vào một cách nhìn quá đậm khuynh hướng tư hữu hoặc tư lợi về Thánh lễ dâng để cầu cho người quá cố “riêng” của họ.14 Thực sự, việc cầu cho kẻ chết luôn luôn là cử hành của toàn thể Giáo Hội và nhắm xin cho những anh chị em này thuộc mọi thời và mọi nơi được tham dự vào vinh quang của Chúa Kitô Phục sinh chứ không đơn thuần là vấn đề tương quan với người chết xét như họ là những người thân thuộc của gia đình, họ hàng hay bạn bè của mình.15

2] Các ý lễ khác (Cầu cho người còn sống)

Ở trong Kinh nguyện Thánh Thể I, có phần Cầu cho người sống (Memento, Domine) được phép nêu danh cụ thể:

Lạy Chúa, xin nhớ đến (những) tôi tớ của Chúa là T… (và T…) và mọi người đang sum họp nơi đây: mà Chúa biết rõ lòng tin kính và sùng mộ. Chúng con dâng thay hoặc chính họ dâng lên Chúa hy lễ ca tụng này cầu cho mình và cho mọi người thân thuộc: hầu linh hồn được cứu chuộc, thân xác được an lành mạnh khoẻ như lòng mong ước: Như vậy, họ được tôn vinh Chúa là Thiên Chúa thật, hằng hữu và hằng sống.16

Lời kinh này cầu cho những người vị chủ tế có ý muốn cầu nguyện bằng cách xướng danh họ cách công khai như được thánh Giêrônimô đề cập (+420): người ta có thói quen xướng danh những tín hữu được nhắc nhở đặc biệt, chẳng hạn, các người bảo trợ tân tòng, người dâng tiền lễ, ân nhân xứ đạo. Sau này, nhằm nhấn mạnh, Alcuin còn thêm cụm từ “vì họ mà chúng con dâng tiến”. Do vậy mới xảy ra hai khả năng được nêu ra luôn: nếu họ vắng mặt, vị tư tế sẽ “dâng thay” cho họ; còn nếu họ hiện diện, “chính họ dâng lên Chúa hy lễ ca tụng”.17

Còn trong những Kinh nguyện Thánh Thể khác, vì đã có phần cầu cho người còn sống nói chung, cho nên vị tư tế không cần nêu “một lô” ý lễ cầu cho người sống chen giữa Kinh nguyện Thánh Thể nữa vì chữ đỏ của Nghi thức Thánh lễ chỉ cho phép “Trong Thánh lễ có nghi thức riêng, có thể thêm ý cầu nguyện đặc biệt ở chỗ này.” Điều đó có nghĩa là vị tư tế chỉ thêm vào giữa Kinh nguyện Thánh Thể ở đây những công thức Giáo Hội đã soạn sẵn khi cử hành Thánh lễ với nghi thức riêng, chẳng hạn như: Thánh lễ Khấn dòng, Truyền chức, Hôn phối…18

IV. KẾT LUẬN

Tóm lại, chỉ khi cử hành Thánh lễ với Bản văn hay Bài lễ “Cầu cho các tín hữu đã qua đời”, vị tư tế có thể sử dụng công thức cầu cho người quá cố có sẵn ngay trong Kinh nguyện Thánh Thể (đóng trong khung). Đang khi đọc Kinh nguyện Thánh Thể, vị tư tế không nên thêm bất cứ một ý nguyện nào khác chỉ trừ những lời nguyện đã được Giáo Hội soạn sẵn để dùng trong Thánh lễ với nghi thức riêng. Các ý lễ, thậm chí một loạt tên những người quá cố, có thể được đăng trong tờ thông tin giáo xứ hay nêu ra vào thời điểm thích hợp như: trước Thánh lễ, lúc đầu lễ và trong Lời nguyện Tín hữu để cùng với chủ tế, mọi người tham dự Thánh lễ cầu nguyện cho họ. Tốt nhất, ý lễ nên được xướng lên trong Lời nguyện Tín hữu hoặc / và trước Thánh lễ. Ngoài ra, vị tư tế không chen vào giữa Kinh nguyện Thánh Thể một loạt ý lễ cầu cho người sống hay một lô tên các anh chị em tín hữu đã qua đời khi không sử dụng Bản văn hay Bài lễ thích hợp.

Lm. Giuse Phạm Đình Ái – Dòng Thánh Thể

_____________________________________________

1 Jungmann, sj, The Mass of the Roman Rite: Its Origins and Development, vol. 1+2, trans. Francis A. Brunner (New York : Benziger Brothers, 1951),1:55.

 Ibid., 2:260-261.

3  Joanne M. Pierce – Richard Rutherford, “Mass and Prayers for Various Circumstances and Masses for the Dead” trong Edward Foley (ed), A Commentary on the General Instruction of the Roman Missal (Minnesota: A Pueblo, The Liturgical Press, 2001), 441.

4  Kinh nguyện Thánh Thể I, II, III, IV; 3 Kinh nguyện Thánh Thể trong Thánh lễ Thiếu Nhi (mẫu I; II; III); 2 Kinh nguyện Thánh Thể Hòa Giải (mẫu I và II); 4 Kinh nguyện Thánh Thể cho các nhu cầu khác nhau (mẫu I, II, III, IV).

 Nghi thức Thánh lễ (Ordo Missae), số 95.

6  Ibid., 105.

7  Ibid.,115.

8  Ibid., 105.

9  Ibid., 115.

10  Xc. Quy chế Tổng quát Sách lễ Roma 381.

11  Các Bài lễ này nằm trong Sách lễ Roma (ấn bản tiếng Việt 1992) từ trang 996-1034.

12  Ví dụ: Bài lễ “Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời”; Bài lễ “Chúa nhật các tuần mùa Thường niên”; Bài lễ “Chúa nhật Thứ I, II, III, IV mùa Vọng”; Bài lễ “Chúa Giáng sinh”; Bài lễ “Tuần Bát Nhật Giáng sinh”; Bài lễ “Chúa nhật I, II, III, IV, V mùa Chay”, Bài lễ “Chúa nhật I,II, III, IV, V, VI, VII Mùa Phục sinh”…

13  Xc. Quy chế Tổng quát Sách lễ Roma 355.

14  Hội đồng Giám mục Việt Nam – Ủy ban Văn hóa, Hướng dẫn về Lòng Đạo đức Bình dân và Phụng vụ (2001), số 255.

15  Joyce Ann Zimmerman, “The Choice of the Mass and Its Parts”, trong Edward Foley (ed), A Commentary on the General Instruction of the Roman Missal (Minnesota: A Pueblo, The Liturgical Press, 2001), 411.

16  Nghi thức Thánh lễ (Ordo Missae), số 85.

17  Paul Turner, The Supper of the Lamb (Chicago: Liturgy Training Publications, 2011), 73.

18  Xc. Sách Nghi lễ Giám mục 516; 541; 561; 593; 610; 765; 786; Quy chế Tổng quát Sách lễ Roma 15.

Back To Top