Các vị thánh và ngày lễ Công giáo đáng chú…

12 Bài suy niệm Lễ ĐỨC MA-RI-A THĂM VIẾNG BÀ Ê-LI-SA-BÉT (của Lm. Anmai, CSsR)
Thăm viếng yêu thương phục vụ–Lm. Anmai, C.Ss.R
Thăm viếng! Một nhu cầu hết sức tự nhiên, hết sức bình thường của con người và chuyện bình thường như thế thì có gì đâu để mà nhớ, để mà mừng. Mỗi một cuộc thăm viếng mang ý nghĩa, mang niềm vui, mang ý nghĩa khác nhau nhưng cuộc thăm viếng của Đức Trinh Nữ Maria hết sức đặc biệt để rồi ngày hôm nay Giáo Hội mừng kính cuộc thăm viếng của Mẹ. Cuộc thăm viếng của Mẹ được trọn vẹn niềm vui bởi vì Mẹ đã lên đường một cách vô vị lợi và Mẹ đã mang Chúa đến cho người khác.
Thánh Sử Luca ghi lại rất ngắn gọn: “Khi ấy, bà Maria lên đường, vội vã đi đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa” (Lc 1, 39). Đơn giản thế thôi: đi đến miền núi. Ngày hôm nay đi lên miền núi cũng là một điều khó khăn huống hồ gì thời của Đức Mẹ. Nếu như tính toán về phương tiện đi lại, điều kiện vật chất thì chẳng ai dại gì mà đi đến cái vùng núi xa xôi hẻo lánh như vậy. Vượt trên cách trở của địa lý và vượt trên sự tính toán thường tình của con người, Mẹ Maria đã ra đi và ra đi một cách “vội vã”. Thánh Sử thêm chữ “vội vã” như muốn nói về lòng hăng say, nhiệt tình của Mẹ dù là lên núi khó khăn cách trở. Nếu lên núi với cái bộ mặt ũ rũ, với cái thái độ lề mề chậm chạp chắc có lẽ là chán lắm, đàng này Đức Mẹ đã “vội vã”!
Một cách diễn tả đơn sơ, vài ba hàng ngắn gọn, chúng ta nhận ra Đức Maria đã đi thăm bà chị họ mình với một tâm tình hết sức là dễ thương, nhiệt tình, chịu thương, chịu khó …
Đặc biệt hơn các cuộc thăm viếng khác ở chỗ là vừa vào nhà, bà Êlisabét nghe tiếng Bà Maria chào thì bỗng dưng đứa con trong bụng nhảy lên. Không chỉ đứa con trong bụng nhảy lên mà mẹ nó được “đầy Thánh Thần”. Đến đây thì quá rõ, chẳng còn gì phải bàn cãi nữa, cuộc thăm viếng của Đức Mẹ quả thật là hết sức đặc biệt và đầy ý nghĩa.
Cuộc thăm viếng của Mẹ vốn đã có ý nghĩa nhưng với xã hội ngày hôm nay, ý nghĩa ấy lại càng được nhân lên gấp bội vì lẽ ngày hôm nay, người ta tính toán với nhau nhiều quá, người ta đã khép lòng lại với anh chị em đồng loại nhiều quá! Và có đi thăm đi chăng nữa cũng chỉ với cái hình thức của con người, của cuộc đời là “có qua có lại mới toại lòng nhau” chứ không còn mang ý nghĩa vô vị lợi như Mẹ nữa. Hơn nữa, khi Mẹ thăm viếng, Mẹ đã không chỉ tung hô Chúa, giới thiệu Chúa mà còn mang Chúa lại cho người khác. Và trong cuộc đời, nếu nhìn kỹ một chút, nếu chìm lắng một chút: có Chúa là có tất cả.
Và thử dừng lại một chút để nhìn lại cuộc đời của Mẹ. Đâu phải bỗng dưng hay vô tình mà Mẹ có Chúa và Mẹ mang Chúa cho người khác. Nếu như Mẹ không có Chúa thì làm gì Mẹ có thể mang Chúa cho người khác, Mẹ chia sẻ niềm vui có Chúa trong đời Mẹ cho người khác được.
Điểm này trong cuộc thăm viếng của Mẹ hết sức quan trọng: muốn mang Chúa, muốn giới thiệu Chúa cho người khác thì trong mình, trước tiên phải có Chúa. Và muốn có Chúa như Mẹ, cần và cần lắm đời sống chiêm niệm, đời sống đơn sơ hoàn toàn tín thác cho Chúa.
Nếu như Đức Maria ồn ào náo động như nhiều người Do Thái cùng thời với Mẹ thì làm sao mà Mẹ có Chúa được? Nếu như Đức Maria trông chờ vào Đấng Mêsia như nhiều người Do Thái thời ấy trông chờ thì làm sao mà Mẹ cưu mang Đấng Cứu Độ trần gian thật được? Và nếu như Đức Maria là người sống bề ngoài, sống cái bề nổi của cuộc đời thì làm sao mà Mẹ khiêm tốn sống trong sự quan phòng của Chúa được.
Nơi Mẹ Maria, có một dấu ấn hết sức đặc biệt đó là Mẹ hết sức quảng đại. Chúng ta, ngày hôm nay, nhiều khi cứ vun vén cho bản thân mình với lối sống đậm chất của ích kỷ, của vun vén nên hình ảnh quảng đại của Mẹ ngày hôm nay cũng là một bài học hết sức to lớn của mỗi người chúng ta. Khi Mẹ cho đi niềm vui thì niềm vui của Mẹ không chỉ nhân hai, nhân bốn mà nhân đến vô cùng.
Thế nên, cuộc thăm viếng của Mẹ hôm nay không chỉ mang niềm vui cho gia đình Êlisabét mà còn mang lại niềm vui cho những ai tự xưng mình là con của Chúa, là con của Mẹ.
Nếu là con của Mẹ thật thì mỗi một cuộc thăm viếng của ta cũng phải giống như Mẹ, nghĩa là cuộc thăm viếng ấy hoàn toàn vô vị lợi và cuộc thăm viếng ấy mang Chúa cho người khác. Có quá đáng chăng khi nói rằng thăm viếng vô vị lợi và có Chúa thì cuộc thăm viếng ấy mới có ý nghĩa và mang niềm vui trọn vẹn. Nếu thăm viếng mà ẩn ý dưới một nguồn lợi nào đó hay là cuộc thăm viếng ấy mình chỉ đi tìm mình thì cũng vui lắm nhưng nó chưa tròn vẹn và chưa mang ý nghĩa cao đẹp như Mẹ.
Thi thoảng có dịp nhìn lại cuộc thăm viếng của Mẹ để ta soi chiếu những cuộc thăm viếng của ta. Xin Mẹ nâng những cuộc thăm viếng của chúng ta thêm tầm cao lên một chút, thêm ý nghĩa lên một chút. Xin Mẹ soi sáng, giúp đỡ chúng ta có những cuộc thăm viếng tròn vẹn ý nghĩa như cuộc thăm viếng của Mẹ với gia đình Êlisabét xưa vậy.
Lm. Anmai, CSsR
NIỀM VUI THĂM VIẾNG–HUỆ MINH
Sau khi sứ thần Gabrien cho biết Đức Mẹ được chúc phúc và cưu mang con Thiên Chúa, Đức Mẹ vui mừng khi người chị họ của mình là bà Êlisabét cũng được chúc phúc. Đức Mẹ đã vội vã lên đường đến thăm chị họ của mình.
Động lực thúc đẩy Đức Mẹ lên đường là do lòng yêu mến và tình người của Đức Mẹ. Khi đã có lòng yêu thương thì có gian nan, xa xôi thì cũng điều vượt qua. Đức Mẹ biết chị họ đã già, lại có thai lần đầu tiên và được sáu tháng nên rất cần người giúp đỡ. Đức Mẹ đã đến ở và giúp người chị của mình. Học nơi mẹ, chúng ta đừng có thái độ làm ngơ hờ hững với anh em họ hàng của mình. Chúng ta hãy yêu thương, quan tâm giúp đỡ khi họ cần vào lúc thuận tiện có thể. Nhờ đó, chúng ta được thêm niềm vui và anh em mình cũng được hạnh phúc như Đức Mẹ vậy.
Chuyến viếng thăm của Đức Mẹ có bao nhiêu mục đích, song mục đích chính yếu vẫn là chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho gia đình Dacaria. Gioan vui mừng nhảy lên trong lòng mẹ nhờ gặp gỡ được Đấng Cứu Thế trong lòng Đức Mẹ. Bà Êlizabeth kêu lớn tiếng và nói: Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em cưu mang cũng được chúc phúc… Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em, sau lời chào của Đức Mẹ.
Đức Mẹ không những đem niềm vui cứu độ đến cho gia đình Dacaria mà còn ở lại với bà Êlizabeth độ 3 tháng để giúp đỡ, sẻ chia, an ủi, bởi hơn bao giờ hết, những ngày tháng sắp sinh nở, và sau khi sinh nở, cần thiết biết bao sự giúp đỡ của người khác. Đức Mẹ đã làm như thế để Êlizabeth hoàn toàn có thể yên tâm trong việc cộng tác phần mình vào trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Đáp lại lời chào mừng của Đức Trinh Nữ, bà Elizabeth nói: “Phúc cho em là người đã tin mọi điều Chúa phán truyền cho em sẽ được ứng nghiệm” (Lc 1, 45). Những lời này được nói ra do Chúa Thánh Linh và đề cao nhân đức cốt yếu của Mẹ Maria là “đức tin”. Các Giáo phụ của Giáo hội đã nhiều ý nghĩa của nhân đức này trong cuộc sống của Đức Trinh Nữ. Các ngài không ngần ngại diễn tả những bình luận có thể làm chúng ta ngạc nhiên. Như Thánh Augustinô nói: “Tính cách người mẹ của Đức Trinh Nữ không ích chi cho Người, nếu Người không cưu mang Chúa Kitô trong tâm lòng hơn là trong cung dạ”.
Nhờ đức tin của Mẹ, Mẹ Maria có thể không sợ hãi tới gần vực thẳm chủ định cứu độ khôn dò của Thiên Chúa: Không dễ gì tin rằng Thiên Chúa muốn “mặc xác phàm và đến ở giữa chúng ta” (Ga 1, 14). Người muốn ẩn mình trong đời sống thường ngày vô nghĩa của chúng ta, và mặc lấy nhân tính yếu hèn phải chịu nhiều điều kiện mất thể diện. Mẹ Maria đã dám tin dự án “bất khả hữu” này. Mẹ tin cậy vào Đấng toàn năng và trở thành người cộng tác vào sáng kiến lạ lùng của Thiên Chúa đã mở ra niềm hy vọng cho lịch sử chúng ta.
Người tín hữu cũng được mời gọi vào thái độ đức tin giống như thế. Đức tin lôi kéo họ can trường nhìn qua bên kia những khả năng và giới hạn những biến cố hoàn toàn nhân loại.
Đức Mẹ đi thăm chị họ của mình cũng có thể nói là Mẹ ra đi truyền giáo. Theo Tin Mừng viết thì Đức Mẹ đi một mình. Nhưng với niềm tin của chúng ta, Đức Mẹ đi cùng với Thiên Chúa vì Mẹ đã được Thiên Chúa chúc phúc, được tuyển chọn, là người của Chúa, thuộc về Chúa và cũng đang cứu mang Con Một Thiên Chúa. Như vậy trên đường đến thăm chị họ, Đức Mẹ luôn có Chúa đi cùng. Đức Mẹ đi trong niềm vui và mang niềm vui đến cho mọi người. Niềm vui ấy được thể hiện nơi thai nhi của bà Êlisa bét: “Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng”(x Lc 1,44). Chúng ta hãy bắt chước Mẹ lên đường trong niềm tin rằng chúng ta không bao giờ đi một mình, chúng ta luôn có Chúa thân hành và hiện diện.
Hình ảnh vui tươi phục vụ và nhất là niềm vui mang Chúa đến cho mọi người nơi Mẹ gợi cho chúng ta một cung cách sống quảng đại, yêu thương và dấn thân phục vụ. Noi gương Đức Mẹ, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi ra đi mang Chúa đến cho mọi người, như lời của Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: Đức Maria, trên con đường đi thăm viếng bà Elizabeth, đã trở nên ngôi nhà tạm sống động, vì Mẹ đang cưu mang trong cung lòng mình Con Thiên Chúa”. Để có thể thực hiện được điều này, mỗi người chúng ta cần phải có Chúa trong mình, cần phải sống kết hiệp với Chúa, trở nên những ngôi nhà tạm sống động của Chúa. Đồng thời, mỗi người chúng ta cũng cần phải biết siêng năng lắng nghe và suy gẫm lời Chúa, để có thể lắng nghe và nhận ra được thánh ý Chúa trên cuộc đời mình, từ đó hăng say cất bước ra đi mang niềm vui đến cho mọi người.
Qua cuộc viếng thăm ấy, Đức Mẹ cảm thấy vô cùng hạnh phúc không gì diễn tả nổi. Đức Mẹ đã cất cao bài “Magnificat”. Một bài ca vang mãi muôn đời. Bài hát mà Giáo Hội đã làm lời kinh trong phụng vụ. Cùng với Giáo Hội chúng ta hãy hát lên và sống bài ca ấy. Bài ca của niềm vui trọn vẹn và đích thực. Niềm vui vì nhìn thấy được công trình cứu chuộc của Thiên Chúa; vui vì tìm được nguồn chân lý, công bằng và sự thật và vui vì con đường đến với Thiên Chúa còn có rất nhiều người cùng đi.
Thăm viếng người khác một cách chân thành với mục đích đem yêu thương, an vui, hạnh phúc đến cho họ là một trong sứ điệp quan trọng của lời Chúa hôm nay. Muốn có thể đem yêu thương, an vui hạnh phúc cho người khác, đòi các tín hữu phải là người có niềm vui cứu độ. Xin Chúa cho các tín hữu luôn biết mở lòng ra cho Chúa đến để khi tâm hôn có Chúa chúng ta có thể bắt chước Đức Mẹ đem niềm vui cứu độ đến với tha nhân.
Lm. Anmai, CSsR
LỄ ĐỨC MA-RI-A THĂM VIẾNG BÀ Ê-LI-SA-BÉT
Trong hành trình đời sống đức tin, những cuộc gặp gỡ giữa con người với nhau không chỉ là sự kết nối xã hội, mà còn là cơ hội để gặp gỡ Thiên Chúa và đón nhận ân sủng của Người. Bài Tin Mừng hôm nay theo thánh Lu-ca mô tả một cuộc gặp gỡ đặc biệt giữa hai người phụ nữ được Thiên Chúa tuyển chọn để đóng vai trò quan trọng trong kế hoạch cứu độ của Ngài: Đức Maria, người cưu mang Đấng Cứu Thế, và bà Ê-li-sa-bét, người cưu mang Gio-an Tẩy Giả, tiếng kêu trong hoang địa.
Đức Ma-ri-a, sau khi nhận được lời truyền tin từ Thiên Thần Gáp-ri-en rằng mình sẽ trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế, đã vội vã lên đường đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. Sự vội vã của Đức Ma-ri-a không phải là sự vội vã của một người hấp tấp, nhưng là sự nhiệt thành của một trái tim yêu thương và phục vụ. Bà lên đường để chia sẻ niềm vui, để đem Chúa đến với gia đình bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng đang mang thai trong tuổi già.
Hình ảnh của Đức Ma-ri-a vội vã lên đường còn là hình ảnh của Giáo Hội đang trên đường truyền giáo, mang Tin Mừng đến mọi nơi, mọi ngõ ngách của cuộc sống. Cuộc hành trình này không chỉ là hành trình địa lý mà còn là hành trình tâm linh. Đó là hành trình của niềm tin, của sự tín thác vào Lời Chúa và của lòng mến. Đức Ma-ri-a, với tất cả sự đơn sơ và khiêm nhường, đã trở thành người mang Chúa đến với nhân loại đầu tiên qua cuộc hành trình này.
Khi Đức Ma-ri-a vừa vào nhà và cất tiếng chào bà Ê-li-sa-bét, lập tức đứa con trong bụng bà nhảy lên và bà Ê-li-sa-bét được đầy Thánh Thần. Hình ảnh này gợi nhắc đến niềm vui ân sủng mà sự hiện diện của Chúa Giê-su đem lại. Gio-an Tẩy Giả, dù còn trong lòng mẹ, đã nhận ra sự hiện diện của Đấng Cứu Thế và đã nhảy lên vì vui mừng. Đó là sự nhảy lên trong Thánh Thần, sự nhảy lên của một tâm hồn đã được đánh động bởi quyền năng của Thiên Chúa.
Bà Ê-li-sa-bét, được đầy Thánh Thần, đã kêu lớn tiếng chúc tụng Đức Ma-ri-a: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.” Đây là lời chúc tụng dành cho Mẹ Thiên Chúa, và đồng thời là lời tuyên xưng đức tin. Bà Ê-li-sa-bét đã nhận ra Đức Ma-ri-a không chỉ là người em họ mà còn là Mẹ Đấng Cứu Thế, là “Thân Mẫu Chúa tôi”.
Bài Tin Mừng hôm nay còn ghi lại lời kinh Magnificat – lời ca ngợi của Đức Ma-ri-a. Lời kinh này không chỉ là lời ca ngợi cá nhân của Đức Ma-ri-a mà còn là lời ca ngợi chung của cả Giáo Hội, của mọi tâm hồn được Thiên Chúa đoái thương. Trong lời kinh Magnificat, Đức Ma-ri-a tôn vinh Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ, là Đấng Toàn Năng đã làm những điều cao cả cho những người thấp hèn, là Đấng đã lật đổ những kẻ quyền thế và nâng cao những người khiêm nhường.
Những lời ca ngợi của Đức Ma-ri-a cũng nhắc nhở chúng ta về sự đảo ngược của các giá trị thế gian. Những gì thế gian xem là cao trọng – quyền lực, giàu có, kiêu căng – sẽ bị hạ bệ. Trong khi đó, những gì thế gian xem là thấp hèn – người nghèo, người khiêm nhường – sẽ được Chúa nâng cao và ban cho sự sung mãn. Đây là một thông điệp mạnh mẽ cho tất cả chúng ta trong thời đại hôm nay.
Cuộc gặp gỡ giữa Đức Ma-ri-a và bà Ê-li-sa-bét còn dạy chúng ta bài học về sự hiện diện của Chúa trong những khoảnh khắc đời thường. Cuộc gặp gỡ này không diễn ra trong cung điện, không có nghi lễ trọng thể, nhưng lại diễn ra tại một ngôi nhà nhỏ bé ở miền núi. Thiên Chúa đến với chúng ta không qua những hình thức hào nhoáng, nhưng qua những sự kiện đời thường, qua những con người đơn sơ và khiêm nhường.
Đức Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng. Khoảng thời gian này không chỉ là thời gian thăm viếng mà còn là thời gian chia sẻ, yêu thương và phục vụ. Hình ảnh này nhắc nhở chúng ta rằng cuộc đời Kitô hữu không chỉ là cuộc đời cầu nguyện mà còn là cuộc đời phục vụ, là sự hiện diện yêu thương bên cạnh những người đang cần đến chúng ta.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được mời gọi trở nên những người mang Chúa đến cho người khác. Hãy lên đường như Đức Ma-ri-a, hãy mang niềm vui của Chúa đến với mọi người, hãy để sự hiện diện của chúng ta trở thành dấu chỉ của tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Hãy để những lời ca Magnificat vang lên trong đời sống chúng ta, như một lời tuyên xưng đức tin, một lời ca ngợi Thiên Chúa, và một lời nhắc nhở về sự đảo ngược của các giá trị thế gian. Vì Thiên Chúa luôn đứng về phía những người thấp hèn, nghèo khó và khiêm nhường. Và Người luôn thực hiện những điều cao cả cho những ai tin tưởng và phó thác nơi Người.
Lm. Anmai, CSsR
ĐỨC MARIA THĂM VIẾNG BÀ Ê-LI-SA-BÉT
Đức Mẹ Maria, người nữ được gọi là người có phúc nhất trong tất cả các phụ nữ, không chỉ vì vai trò làm Mẹ Đấng Cứu Thế, mà còn vì cách Mẹ đã sống, đã tin và đã yêu thương. Qua đoạn Phúc Âm tường thuật về cuộc thăm viếng bà Ê-li-sa-bét, chúng ta được mời gọi suy ngẫm về những lý do khiến Đức Maria được diễm phúc như thế.
Thứ nhất, Đức Maria có đức tin vững mạnh. Bà Ê-li-sa-bét đã ca ngợi Mẹ rằng: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em.” Đây là lời chúc phúc không chỉ cho việc Đức Maria cưu mang Đấng Cứu Thế mà còn cho chính niềm tin tuyệt đối của Mẹ vào Thiên Chúa. Mẹ đã tin vào lời sứ thần truyền tin dù đó là điều tưởng chừng như không thể. Sự tin tưởng ấy đã mở ra một lối đi mới, một chương trình cứu độ vĩ đại mà Mẹ đã tham gia với tất cả sự khiêm nhường và tín thác. Đức Maria đã không chỉ tin bằng lời nói, mà còn bằng hành động cụ thể. Mẹ đã ra đi vội vã đến miền núi, vào nhà bà Ê-li-sa-bét để chia sẻ niềm vui và phục vụ người chị họ của mình. Chính đức tin mạnh mẽ ấy đã làm cho Mẹ trở nên người được chúc phúc và làm cho cuộc đời Mẹ trở nên một bài ca Magnificat sống động.
Thứ hai, Mẹ luôn có Chúa Giêsu trong mình. Khi Mẹ cất tiếng chào, bà Ê-li-sa-bét đã cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Giêsu trong lòng Mẹ. Hài Nhi Gioan nhảy mừng trong bụng bà Ê-li-sa-bét. Đức Maria không chỉ mang Chúa Giêsu trong cung lòng mà còn mang Ngài đến với người khác. Hành động ra đi thăm viếng của Mẹ là hành động mang Chúa đến với mọi người. Mẹ không chỉ là người cưu mang Chúa trong lòng mà còn là người cưu mang Chúa trong cuộc sống thường nhật, trong từng cử chỉ yêu thương và phục vụ. Đó là một tấm gương cho mọi Kitô hữu: chúng ta không chỉ được mời gọi cưu mang Chúa Giêsu trong lòng mà còn phải mang Chúa đến cho người khác qua lời nói, qua việc làm, qua sự hiện diện của mình.
Thứ ba, Đức Maria biết quan tâm mang hạnh phúc đến cho người khác. Hành động lên đường đến thăm bà Ê-li-sa-bét cho thấy tấm lòng yêu thương, sự quan tâm đến người khác. Mẹ không ngại gian nan, đường xá xa xôi, hiểm trở để đến với người chị họ đang mang thai. Mẹ đến để chia sẻ niềm vui, để phục vụ và để trở thành người đem ơn phúc của Thiên Chúa đến với người khác. Đức Maria đã sống tinh thần bác ái một cách cụ thể và sinh động. Mẹ không chỉ là người nói về tình yêu, mà còn là người thực hành tình yêu, biến tình yêu thành hành động cụ thể, mang đến niềm vui và ơn phúc cho người khác.
Thứ tư, Mẹ sống như một người nghèo của Thiên Chúa. Trong lời ca Magnificat, Mẹ đã nói: “Kẻ đói nghèo Ngài ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng.” Mẹ ý thức mình là người tôi tớ khiêm nhường của Thiên Chúa và sẵn sàng để Thiên Chúa thực hiện những điều kỳ diệu qua Mẹ. Mẹ là người nghèo nhưng lại giàu ân sủng, giàu tình yêu và giàu đức tin. Mẹ đã biết sống tinh thần nghèo khó để có thể hoàn toàn tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa và nhận ra rằng mọi sự đều là ân ban từ Ngài.
Khi suy ngẫm về cuộc thăm viếng của Đức Maria, chúng ta được mời gọi nhìn lại đời sống đức tin của mình. Chúng ta có tin tưởng vào lời Chúa như Mẹ không? Chúng ta có sẵn sàng lên đường đến với những người cần giúp đỡ, an ủi, chia sẻ niềm vui như Mẹ không? Chúng ta có mang Chúa đến cho người khác qua đời sống bác ái, yêu thương và phục vụ không? Và cuối cùng, chúng ta có sống tinh thần nghèo khó, phó thác vào Thiên Chúa và để Ngài thực hiện những điều kỳ diệu trong cuộc đời mình không?
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Mẹ Maria đã đem Chúa đến gia đình ông Dacaria. Cuộc thăm viếng này không những đem lại niềm vui, mà còn đem ân sủng của Chúa xuống trên gia đình người chị họ neo đơn. Nhờ đó mà Thánh Gioan Tiền Hô được tẩy sạch tội lỗi, nhảy mừng trong lòng bà Ê-li-sa-bét. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng con rất thường gặp gỡ, thăm hỏi nhau. Nhưng liệu chúng con có biết mang Chúa đến cho người khác như Mẹ Maria không? Xin cho chúng con biết học theo gương Mẹ, luôn sẵn sàng lên đường, sẵn sàng mang Chúa đến với mọi người qua đời sống yêu thương, phục vụ và khiêm nhường. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
ĐỨC MA-RI-A THĂM VIẾNG BÀ Ê-LI-SA-BÉT
Hôm nay, chúng ta cùng nhau suy niệm về một trong những sự kiện tuyệt đẹp trong lịch sử cứu độ: cuộc thăm viếng của Đức Ma-ri-a đến với bà Ê-li-sa-bét. Đây không chỉ là một câu chuyện về tình thân, mà còn là một biến cố mang ý nghĩa thiêng liêng sâu sắc, làm rạng ngời tình yêu, ân sủng và niềm vui của Thiên Chúa. Lời ngôn sứ Xô-phô-ni-a vang vọng: “Hãy reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on! Hãy cất tiếng hò vang, hỡi nhà Ít-ra-en!” (Xph 3,14). Lời kêu gọi này mời gọi chúng ta mở lòng đón nhận niềm vui lớn lao của ơn cứu độ qua Đức Ma-ri-a và bà Ê-li-sa-bét.
Đức Ma-ri-a, ngay sau khi được sứ thần Gabriel báo tin về việc thụ thai Đấng Cứu Thế, đã vội vã lên đường đến vùng đồi núi Giu-đa, nơi bà Ê-li-sa-bét đang mang thai. Cuộc hành trình này đầy gian khó, nhưng Mẹ đã vượt qua nhờ tình yêu thương, lòng bác ái và đức tin sâu sắc. Mẹ mang trong mình Đấng Cứu Thế, và cuộc viếng thăm này trở thành một cuộc gặp gỡ thiêng liêng giữa Đấng Cứu Độ và Gioan Tẩy Giả, vị Tiền Hô. Sự vội vã của Mẹ dạy chúng ta rằng tình yêu đích thực luôn thôi thúc chúng ta ra khỏi chính mình, vượt qua khó khăn để đến với tha nhân.
Khi Đức Ma-ri-a cất tiếng chào, “đứa con trong bụng bà Ê-li-sa-bét nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần” (Lc 1,41). Hành động “nhảy lên” của Gioan Tẩy Giả là dấu chỉ thiêng liêng, tiên báo sứ mệnh làm chứng và dọn đường cho Đức Giê-su. Bà Ê-li-sa-bét, được Thánh Thần soi sáng, ca ngợi: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc!” (Lc 1,42). Lời này xác nhận vai trò của Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa, và đức tin tuyệt đối của Mẹ là chìa khóa mở ra ơn cứu độ.
Đáp lại, Đức Ma-ri-a cất lên bài kinh Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1,46-47). Mẹ nhìn nhận mình là “phận nữ tỳ hèn mọn”, nhưng chính sự khiêm nhường ấy khiến Thiên Chúa thực hiện những điều kỳ diệu qua Mẹ. Bài ca này tiên báo sự đảo lộn trật tự thế gian: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao những kẻ thấp hèn” (Lc 1,52). Magnificat là tiếng nói của những người nghèo khó, đặt niềm hy vọng vào Thiên Chúa.
Trong ba tháng lưu lại, Đức Ma-ri-a phục vụ âm thầm, mang Chúa đến cho gia đình bà Ê-li-sa-bét. Sự hiện diện của Mẹ là dấu chỉ của ơn cứu độ. Mẹ dạy chúng ta sống cho tha nhân, mang Chúa đến với mọi người qua những hành động yêu thương cụ thể, và sống khiêm nhường, nhận ra mọi ân sủng đều từ Thiên Chúa.
Lễ Thăm Viếng thách thức chúng ta: Tôi có sẵn sàng bước ra khỏi vùng an toàn để đến với người cần giúp đỡ không? Tôi có mang niềm vui Tin Mừng đến cho những người đau khổ không? Tôi có sống khiêm nhường, dùng ân sủng Chúa ban để phục vụ tha nhân không? Cuộc gặp gỡ giữa Đức Ma-ri-a và bà Ê-li-sa-bét nhắc nhở chúng ta về sức mạnh của sự hiện diện: một lời nói, một cử chỉ yêu thương có thể mang lại niềm vui và hy vọng.
Hãy cùng cất lên lời kinh Magnificat, ngợi ca Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu trong cuộc đời Đức Ma-ri-a và trong đời mỗi người chúng ta. Xin cho chúng ta noi gương Mẹ, vội vã mang Chúa đến cho tha nhân, sống khiêm nhường và tin tưởng vào kế hoạch của Thiên Chúa. Xin Đức Ma-ri-a cầu bầu để chúng ta trở thành những người mang niềm vui Tin Mừng, làm cho thế giới rạng ngời ánh sáng của Đấng Cứu Thế.
Lm. Anmai, CSsR
ĐỨC MA-RI-A THĂM VIẾNG BÀ Ê-LI-SA-BÉT
Hôm nay, chúng ta cùng nhau suy niệm về một trong những sự kiện tuyệt đẹp trong lịch sử cứu độ: cuộc thăm viếng của Đức Ma-ri-a đến với bà Ê-li-sa-bét. Đây không chỉ là một câu chuyện về tình thân, mà còn là một biến cố mang ý nghĩa thiêng liêng sâu sắc, làm rạng ngời tình yêu, ân sủng và niềm vui của Thiên Chúa. Lời ngôn sứ Xô-phô-ni-a vang vọng: “Hãy reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on! Hãy cất tiếng hò vang, hỡi nhà Ít-ra-en!” (Xph 3,14). Lời kêu gọi này mời gọi chúng ta mở lòng đón nhận niềm vui lớn lao của ơn cứu độ qua Đức Ma-ri-a và bà Ê-li-sa-bét.
Đức Ma-ri-a, ngay sau khi được sứ thần Gabriel báo tin về việc thụ thai Đấng Cứu Thế, đã vội vã lên đường đến vùng đồi núi Giu-đa, nơi bà Ê-li-sa-bét đang mang thai. Cuộc hành trình này đầy gian khó, nhưng Mẹ đã vượt qua nhờ tình yêu thương, lòng bác ái và đức tin sâu sắc. Mẹ mang trong mình Đấng Cứu Thế, và cuộc viếng thăm này trở thành một cuộc gặp gỡ thiêng liêng giữa Đấng Cứu Độ và Gioan Tẩy Giả, vị Tiền Hô. Sự vội vã của Mẹ dạy chúng ta rằng tình yêu đích thực luôn thôi thúc chúng ta ra khỏi chính mình, vượt qua khó khăn để đến với tha nhân.
Khi Đức Ma-ri-a cất tiếng chào, “đứa con trong bụng bà Ê-li-sa-bét nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần” (Lc 1,41). Hành động “nhảy lên” của Gioan Tẩy Giả là dấu chỉ thiêng liêng, tiên báo sứ mệnh làm chứng và dọn đường cho Đức Giê-su. Bà Ê-li-sa-bét, được Thánh Thần soi sáng, ca ngợi: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc!” (Lc 1,42). Lời này xác nhận vai trò của Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa, và đức tin tuyệt đối của Mẹ là chìa khóa mở ra ơn cứu độ.
Đáp lại, Đức Ma-ri-a cất lên bài kinh Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1,46-47). Mẹ nhìn nhận mình là “phận nữ tỳ hèn mọn”, nhưng chính sự khiêm nhường ấy khiến Thiên Chúa thực hiện những điều kỳ diệu qua Mẹ. Bài ca này tiên báo sự đảo lộn trật tự thế gian: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao những kẻ thấp hèn” (Lc 1,52). Magnificat là tiếng nói của những người nghèo khó, đặt niềm hy vọng vào Thiên Chúa.
Trong ba tháng lưu lại, Đức Ma-ri-a phục vụ âm thầm, mang Chúa đến cho gia đình bà Ê-li-sa-bét. Sự hiện diện của Mẹ là dấu chỉ của ơn cứu độ. Mẹ dạy chúng ta sống cho tha nhân, mang Chúa đến với mọi người qua những hành động yêu thương cụ thể, và sống khiêm nhường, nhận ra mọi ân sủng đều từ Thiên Chúa.
Lễ Thăm Viếng thách thức chúng ta: Tôi có sẵn sàng bước ra khỏi vùng an toàn để đến với người cần giúp đỡ không? Tôi có mang niềm vui Tin Mừng đến cho những người đau khổ không? Tôi có sống khiêm nhường, dùng ân sủng Chúa ban để phục vụ tha nhân không? Cuộc gặp gỡ giữa Đức Ma-ri-a và bà Ê-li-sa-bét nhắc nhở chúng ta về sức mạnh của sự hiện diện: một lời nói, một cử chỉ yêu thương có thể mang lại niềm vui và hy vọng.
Hãy cùng cất lên lời kinh Magnificat, ngợi ca Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu trong cuộc đời Đức Ma-ri-a và trong đời mỗi người chúng ta. Xin cho chúng ta noi gương Mẹ, vội vã mang Chúa đến cho tha nhân, sống khiêm nhường và tin tưởng vào kế hoạch của Thiên Chúa. Xin Đức Ma-ri-a cầu bầu để chúng ta trở thành những người mang niềm vui Tin Mừng, làm cho thế giới rạng ngời ánh sáng của Đấng Cứu Thế.
Lm. Anmai, CSsR
ĐỨC MARIA THĂM VIẾNG BÀ Ê-LI-SA-BÉT: CUỘC GẶP GỠ CỦA ÂN SỦNG VÀ NIỀM VUI
Cuộc thăm viếng của Đức Maria đến gia đình ông Gia-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét không chỉ là một hành động bác ái đơn thuần mà còn mang một ý nghĩa truyền giáo sâu sắc. Đây là một sự kiện thánh thiêng, nơi mà Đức Maria, với Chúa Giêsu trong cung lòng, đã trở thành người mang Tin Mừng đến cho nhân loại một cách khiêm nhường và âm thầm. Truyền giáo, trong ánh sáng của cuộc thăm viếng này, không chỉ là việc rao giảng Lời Chúa bằng lời nói, mà còn là việc đem chính sự hiện diện của Thiên Chúa đến với những người xung quanh. Qua hành động của Đức Maria, chúng ta nhận ra rằng mỗi người Kitô hữu cũng được mời gọi trở thành những “người mang Chúa” trong cuộc sống hằng ngày, biến những cuộc gặp gỡ thường nhật thành những khoảnh khắc tràn đầy ân sủng và niềm vui.
Khi Đức Maria vội vã lên đường đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa, bà không chỉ đơn thuần thực hiện một chuyến thăm viếng thân tình. Trong cung lòng mình, bà đang cưu mang Đấng Cứu Thế – Chúa Giêsu, Đấng mà toàn thể nhân loại đang trông đợi. Hành trình của bà là một hành trình của đức tin, của lòng bác ái, và của sứ mạng truyền giáo. Đức Maria không chờ đợi người khác đến với mình, mà chính bà chủ động lên đường, bất chấp những khó khăn của một hành trình dài và hiểm trở. Điều này cho thấy tinh thần phục vụ và sự sẵn sàng dấn thân của Mẹ, một tấm gương sáng ngời cho tất cả chúng ta.
Chỉ một lời chào đơn sơ của Đức Maria đã làm nên điều kỳ diệu: thai nhi Gioan trong lòng bà Ê-li-sa-bét nhảy lên vui mừng. Đây không chỉ là một phản ứng tự nhiên, mà là một dấu chỉ thần thiêng. Gioan, vị Tiền Hô của Đấng Thiên Sai, đã nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu ngay cả khi còn trong lòng mẹ. Niềm vui của Gioan là niềm vui của sự giải thoát, của việc được tẩy sạch tội nguyên tổ, và của việc được gặp gỡ Đấng Cứu Độ. Lời chào của Đức Maria, vì thế, không chỉ là một lời nói thông thường, mà là một phương tiện để ân sủng của Thiên Chúa tuôn đổ dồi dào, làm bừng lên niềm vui cứu độ trong lòng những người đón nhận.
Cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Ê-li-sa-bét là một khoảnh khắc tràn đầy Chúa Thánh Thần. Được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần, bà Ê-li-sa-bét đã cất lên những lời chúc phúc: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.” Những lời này không chỉ là một lời khen ngợi, mà là một lời tuyên xưng đức tin, một sự thừa nhận về vai trò độc nhất của Đức Maria trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Bà Ê-li-sa-bét, với sự nhạy bén thiêng liêng, đã nhận ra rằng người phụ nữ đứng trước mặt mình không chỉ là một người thân, mà là Mẹ của Thiên Chúa, là Đấng được Thiên Chúa chọn để mang Đấng Cứu Thế đến với thế gian.
Đáp lại, Đức Maria đã cất lên bài ca Magnificat, một bài thánh ca ngợi khen Thiên Chúa vì những kỳ công Ngài đã thực hiện. Lời ca ngợi của Mẹ không chỉ là sự bày tỏ lòng biết ơn cá nhân, mà còn là một lời tuyên bố về lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng nâng cao kẻ thấp hèn, lấp đầy kẻ đói khát, và thực hiện lời hứa với dân Ngài. Qua bài ca này, Đức Maria trở thành một ngôn sứ, một người loan báo về tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa. Cuộc thăm viếng, vì thế, không chỉ là một cuộc gặp gỡ giữa hai người phụ nữ, mà là một sự kiện mang tầm vóc cứu độ, nơi mà Thiên Chúa hành động qua những con người khiêm nhường để thực hiện kế hoạch của Ngài.
Cuộc thăm viếng của Đức Maria mời gọi mỗi người Kitô hữu suy nghĩ về cách chúng ta sống và tương tác với những người xung quanh. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta có vô số cơ hội để gặp gỡ, thăm hỏi, và chia sẻ với anh chị em mình. Nhưng liệu những cuộc gặp gỡ đó có thực sự mang lại giá trị thiêng liêng, hay chỉ là những khoảnh khắc xã giao thoáng qua? Liệu chúng ta có ý thức được rằng mình được mời gọi trở thành những “người mang Chúa” như Đức Maria, đem ánh sáng và niềm vui của Tin Mừng đến cho người khác?
Để trở thành người mang Chúa, trước hết chúng ta cần có Chúa trong lòng. Đức Maria đã cưu mang Chúa Giêsu trong cung lòng mình, và từ đó, Mẹ mang Chúa đến cho bà Ê-li-sa-bét. Tương tự, mỗi lần chúng ta tham dự Thánh Lễ và rước Chúa Thánh Thể, chúng ta cũng được mời gọi cưu mang Chúa trong tâm hồn mình. Nhưng liệu chúng ta có thực sự trân quý sự hiện diện của Chúa? Liệu chúng ta có để Chúa hướng dẫn lời nói, hành động, và cách chúng ta đối xử với người khác? Hay chúng ta chỉ tham dự Thánh Lễ như một thói quen, mà không để Chúa chạm đến và biến đổi cuộc đời mình?
Hơn nữa, việc mang Chúa đến cho người khác không đòi hỏi chúng ta phải thực hiện những hành động to lớn hay ồn ào. Như Đức Maria, chúng ta có thể mang Chúa đến qua những cử chỉ đơn sơ: một lời chào đầy yêu thương, một nụ cười chân thành, một hành động giúp đỡ âm thầm, hay một thái độ lắng nghe đầy kiên nhẫn. Những điều nhỏ bé này, khi được thực hiện với tình yêu và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, có thể trở thành những phương tiện để ân sủng của Thiên Chúa chạm đến tâm hồn người khác.
Cuộc thăm viếng của Đức Maria cũng là một lời nhắc nhở về vai trò quan trọng của người phụ nữ trong công cuộc cứu độ. Đức Maria là hình mẫu của một người môn đệ trung tín, một người mẹ đầy yêu thương, và một người truyền giáo khiêm nhường. Qua đời sống của mình, Mẹ đã cho thấy rằng người phụ nữ có một sứ mạng đặc biệt trong việc mang Chúa đến cho thế giới. Mẹ không rao giảng bằng những bài giảng dài dòng, mà bằng chính đời sống hy sinh, cầu nguyện, và phục vụ.
Trong bối cảnh gia đình hôm nay, các người mẹ, người vợ, và người con gái được mời gọi noi gương Đức Maria. Họ được mời gọi trở thành những người mang Tin Mừng ngay trong chính gia đình mình, qua những hành động yêu thương, sự kiên nhẫn, và lòng hy sinh. Một người mẹ cầu nguyện cho con cái, một người vợ lắng nghe và chia sẻ với chồng, hay một người con gái giúp đỡ anh chị em mình – tất cả những điều này đều là những cách để mang Chúa đến với gia đình. Vai trò của người phụ nữ không chỉ giới hạn trong việc chăm sóc gia đình về mặt vật chất, mà còn là việc nuôi dưỡng đời sống đức tin, gieo mầm hy vọng, và lan tỏa tình yêu của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa vì gương sáng của Mẹ Maria, người đã vội vã lên đường để mang Chúa đến cho gia đình bà Ê-li-sa-bét. Xin Chúa giúp chúng con noi gương Mẹ, biết sống đời Kitô hữu cách trọn vẹn bằng cách yêu mến Chúa trên hết mọi sự và mang Chúa đến cho anh chị em mình. Xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng con, để mỗi lời nói, hành động, và thái độ của chúng con đều trở thành những kênh chuyển tải ân sủng và niềm vui của Chúa.
Xin Chúa ban cho chúng con một trái tim nhạy bén, biết nhận ra sự hiện diện của Chúa trong Thánh Thể và trong những người xung quanh. Xin cho chúng con biết trân quý mỗi Thánh Lễ
như một cơ hội để đón nhận Chúa vào lòng, và từ đó, mang Chúa đến với thế giới bằng đời sống yêu thương, phục vụ, và khiêm nhường. Đặc biệt, xin Chúa ban ơn cho các người mẹ, người vợ, và người con gái trong gia đình chúng con, để họ luôn noi gương Mẹ Maria, trở thành những người mang Tin Mừng bằng chính đời sống hy sinh và cầu nguyện của mình.
Lạy Mẹ Maria, xin cầu bầu cho chúng con, để chúng con biết sống xứng đáng với ơn gọi làm con cái Chúa. Xin Mẹ đồng hành với chúng con trên hành trình đức tin, giúp chúng con luôn hướng về Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng con.
Lm. Anmai, CSsR
ĐỨC MARIA THĂM VIẾNG BÀ ÊLISABÉT: HÀNH TRÌNH CỦA TÌNH YÊU VÀ ĐỨC TIN
Ngay sau khi được sứ thần Gabriel loan báo rằng mình sẽ thụ thai Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã không chần chừ, mà “vội vã” lên đường đến thăm bà Êlisabét, người chị họ đang mang thai trong hoàn cảnh kỳ diệu của tuổi già. Hành trình này không chỉ là một chuyến đi đơn thuần giữa hai người phụ nữ trong gia đình, mà còn là một hành trình mang ý nghĩa thần linh sâu sắc. Những bước chân của Đức Maria trên con đường gập ghềnh dẫn đến vùng đồi núi Giuđa là biểu tượng của lòng nhiệt thành, sự sẵn sàng và tình yêu vô vị kỷ.
Đức Maria, dù đang mang trong mình mầu nhiệm cao cả – Con Thiên Chúa nhập thể – vẫn không giữ riêng niềm vui ấy cho mình. Thay vào đó, Mẹ mang Chúa Giêsu, nguồn mạch mọi ân sủng, đến với gia đình bà Êlisabét. Hành động này thể hiện tinh thần tông đồ đích thực: người môn đệ của Chúa không chỉ đón nhận ơn cứu độ, mà còn có trách nhiệm chia sẻ niềm vui ấy cho người khác. Đức Maria trở thành hình mẫu lý tưởng của người Kitô hữu, người luôn sẵn sàng lên đường, bất chấp khó khăn, để mang Chúa đến cho thế giới.
Hành trình của Đức Maria cũng là lời mời gọi mỗi người chúng ta suy ngẫm về cách chúng ta sống đức tin. Liệu chúng ta có sẵn sàng “vội vã” đứng dậy, rời khỏi sự thoải mái của bản thân để đến với những người đang cần sự giúp đỡ, an ủi hay sẻ chia? Đức Maria dạy chúng ta rằng, đức tin không chỉ là sự chiêm niệm trong thinh lặng, mà còn là hành động cụ thể, là sự dấn thân để làm cho tình yêu Thiên Chúa lan tỏa đến mọi người.
Khi Đức Maria cất tiếng chào bà Êlisabét, một điều kỳ diệu đã xảy ra: hài nhi Gioan trong lòng mẹ nhảy mừng. Đây không chỉ là một phản ứng tự nhiên, mà là dấu chỉ rõ ràng của sự hiện diện của Đấng Cứu Thế và quyền năng của Thánh Thần. Gioan, người được sứ thần Gabriel tiên báo sẽ “đầy Thánh Thần ngay từ trong lòng mẹ” (Lc 1,15), đã nhận ra Chúa Giêsu, dù cả hai hài nhi vẫn còn trong bụng mẹ. Khoảnh khắc này là một lời chứng hùng hồn về sự sống thiêng liêng, về sự thánh thiêng của thai nhi, và về cách Thiên Chúa hành động ngay cả trong những điều nhỏ bé nhất.
Cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Êlisabét không chỉ là sự giao cảm giữa hai người phụ nữ, mà còn là một sự kiện mang tính siêu nhiên. Thánh Thần đã nối kết hai người mẹ, hai hài nhi và hai sứ mạng: Đức Maria mang Đấng Cứu Thế, còn bà Êlisabét mang người tiền hô, người sẽ dọn đường cho Chúa. Trong sự hiện diện của Đức Maria và Chúa Giêsu, gia đình bà Êlisabét được tràn đầy niềm vui, bình an và ân sủng.
Sự kiện này cũng nhắc nhở chúng ta về vai trò của Thánh Thần trong đời sống Kitô hữu. Chính Thánh Thần soi sáng để bà Êlisabét nhận ra vai trò cao cả của Đức Maria: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1,43). Lời tuyên xưng này không chỉ là lời chúc mừng, mà còn là một lời tiên tri, khẳng định vị trí độc đáo của Đức Maria trong lịch sử cứu độ. Qua đó, chúng ta được mời gọi để mở lòng đón nhận sự hướng dẫn của Thánh Thần, để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống và trong những người xung quanh.
Sau khi được bà Êlisabét chúc phúc, Đức Maria đã đáp lại bằng bài ca Magnificat (Lc 1,46-55), một bài thánh thi tuyệt vời, là đỉnh cao của lòng tin, sự khiêm nhường và lòng biết ơn đối với Thiên Chúa. Bài ca này không chỉ là lời ngợi khen của riêng Đức Maria, mà còn là tiếng nói của toàn thể nhân loại, của những tâm hồn bé nhỏ nhận ra quyền năng và tình thương của Thiên Chúa.
Trong Magnificat, Đức Maria tuyên xưng rằng mọi điều cao cả trong đời mình đều đến từ Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1,46-47). Mẹ không tự hào về bản thân, mà hướng mọi vinh quang về Thiên Chúa. Sự khiêm nhường của Đức Maria là bài học cho chúng ta: dù được Thiên Chúa ban cho những ân huệ lớn lao, Mẹ vẫn nhận ra mình chỉ là “nữ tỳ hèn mọn” (Lc 1,48).
Hơn thế nữa, Magnificat còn là một lời tuyên bố mang tính cách mạng về công lý của Thiên Chúa. Đức Maria ca ngợi Thiên Chúa là Đấng “đánh đổ những kẻ quyền thế khỏi ngai vàng, và nâng cao những người thấp hèn; kẻ đói nghèo, Ngài ban đầy dư của cải, người giàu có lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,52-53). Lời ca này không chỉ phản ánh niềm tin của Đức Maria, mà còn là một lời tiên báo về trật tự mới mà Chúa Giêsu sẽ thiết lập: một thế giới nơi tình yêu, công lý và lòng thương xót ngự trị.
Bài ca Magnificat là nguồn cảm hứng cho mọi Kitô hữu. Nó nhắc nhở chúng ta rằng, Thiên Chúa không nhìn theo tiêu chuẩn của thế gian – quyền lực, giàu sang hay danh vọng – mà chọn những tâm hồn khiêm nhường, đơn sơ để thực hiện kế hoạch của Ngài. Chúng ta được mời gọi sống như Đức Maria: biết ơn Thiên Chúa vì những ân huệ Ngài ban, và chia sẻ những ân huệ ấy với người khác.
Cuộc thăm viếng của Đức Maria không chỉ là một sự kiện lịch sử, mà còn là một bài học sống động về lòng bác ái và sự dấn thân. Dù đang mang thai, Đức Maria vẫn không ngần ngại vượt qua hành trình dài và khó khăn để đến với bà Êlisabét. Sự “vội vã” của Mẹ không phải là sự hấp tấp, mà là biểu hiện của lòng nhiệt thành, của tình yêu thúc đẩy Mẹ ra khỏi chính mình để phục vụ người khác.
Đức Maria đã mang Chúa Giêsu đến với gia đình bà Êlisabét, và qua đó, mang niềm vui, bình an và ân sủng đến cho họ. Đây là hình ảnh của một người tông đồ đích thực: không giữ Chúa cho riêng mình, mà mang Chúa đến với thế giới, đặc biệt là những người nghèo khổ, đau khổ và đang cần đến sự an ủi.
Hành động của Đức Maria là lời nhắc nhở mạnh mẽ cho chúng ta trong đời sống Kitô hữu. Trong một thế giới đầy ích kỷ và vô cảm, chúng ta được mời gọi noi gương Đức Maria: biết quan tâm, sẻ chia và mang niềm vui đến cho người khác. Lòng bác ái không chỉ là việc làm những điều lớn lao, mà đôi khi chỉ là một lời thăm hỏi, một cử chỉ yêu thương, hay một sự hiện diện đầy cảm thông.
Hơn nữa, Đức Maria dạy chúng ta rằng, lòng bác ái phải bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa. Chính vì Mẹ tràn đầy Chúa, Mẹ mới có thể trao ban Chúa cho người khác. Điều này nhắc nhở chúng ta rằng, để sống bác ái, chúng ta cần nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện, kết hợp mật thiết với Chúa, để từ đó, chúng ta có thể trở thành khí cụ của Ngài, mang tình yêu và ân sủng đến cho thế giới.
Cuộc thăm viếng của Đức Maria không chỉ là một câu chuyện trong quá khứ, mà là một lời mời gọi sống động cho mỗi người chúng ta hôm nay. Đức Maria dạy chúng ta rằng, đức tin không chỉ là việc tin vào Thiên Chúa, mà còn là việc sống đức tin ấy qua những hành động cụ thể. Mẹ mời gọi chúng ta trở thành những “người mang Chúa”, mang niềm vui, hy vọng và tình yêu đến với những người xung quanh.
Trong bối cảnh xã hội hiện nay, khi nhiều người đang sống trong cô đơn, đau khổ và tuyệt vọng, sứ mạng của người Kitô hữu càng trở nên cấp thiết. Chúng ta được mời gọi noi gương Đức Maria, “vội vã” đứng dậy, ra khỏi vùng an toàn của mình để đến với những người cần sự giúp đỡ. Đó có thể là một người bạn đang gặp khó khăn, một người nghèo khổ bên lề xã hội, hay một người thân trong gia đình đang cần sự lắng nghe.
Hơn nữa, cuộc thăm viếng này nhắc nhở chúng ta về vai trò của cộng đoàn trong đời sống đức tin. Đức Maria và bà Êlisabét đã nâng đỡ nhau, chia sẻ niềm vui và củng cố đức tin cho nhau. Tương tự, chúng ta được mời gọi xây dựng những cộng đoàn đức tin, nơi mọi người có thể sẻ chia, hỗ trợ và cùng nhau lớn lên trong tình yêu Thiên Chúa.
Cuộc thăm viếng của Đức Maria là một sự kiện tuyệt vời, không chỉ vì ý nghĩa thần học sâu sắc, mà còn vì những bài học thực tiễn mà nó mang lại cho chúng ta. Đức Maria, với lòng khiêm nhường, đức tin và lòng bác ái, đã trở thành mẫu gương sáng ngời cho mọi Kitô hữu. Mẹ dạy chúng ta biết sống cho Thiên Chúa và cho tha nhân, biết mang Chúa đến với thế giới, và biết ngợi khen Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con biết noi gương Mẹ, sống một đời sống tràn đầy đức tin, lòng bác ái và sự dấn thân. Xin cho chúng con biết “vội vã” lên đường, mang Chúa Giêsu đến cho những người xung quanh, đặc biệt là những người nghèo khổ, đau khổ và đang cần đến sự an ủi. Xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa, để chúng con luôn biết ngợi khen và tạ ơn Ngài như Mẹ đã làm trong bài ca Magnificat. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
Lm. Anmai, CSsR
THĂM VIẾNG NHƯ MẸ
Tin mừng ngày Lễ Thăm viếng cho chúng ta chân dung của hai người mẹ diễm phúc nhất trần gian: Đức Maria, Mẹ Đấng Cứu Thế và Isave, mẹ Gioan Tiền Hô.
Một cuộc gặp gỡ chan chứa niềm vui, diễn ra trong bầu khí của Thánh Thần. Thánh Thần tác động trên Maria. Thánh Thần tràn đầy bà Isave. Thánh Thần đã hoạt động nơi thai nhi Gioan (Lc 1,15). Đó là một Lễ Ngũ Tuần đầu tiên mà bà Isave nói dưới tác động của ThánhThần. Đức Maria đã tiếp đón một cách đơn sơ sự hiện diện của Thiên Chúa trong chính cung lòng Mẹ. Cuộc gặp gỡ ngoại hạng này cũng như sáng ngày Phục Sinh, bí mật nầy của Thiên Chúa được giao phó cho phụ nữ trong niềm hân hoan vui sướng chỉ có thể đến từ Chúa Thánh Thần.
Thánh Luca thích nói rằng Thánh Thần sẽ “được đổ tràn đầy trên mọi xác thịt”, khi trích dẫn những lời của tiên tri Gioel. Bà Isave trở thành nữ tiên tri. Bà kêu lên, bằng giọng của lời tung hô phụng vụ : “Maria, em thật có phúc giữa tất cả phụ nữ và hoa trái lòng em được chúc phúc”.
Suy niệm về cuộc gặp gỡ kỳ diệu của hai bà mẹ cho chúng ta những bài học bổ ích.
Đức Maria đã đi thăm người chị họ Isave. Dù đường sá xa xôi, vất vả, qua miền đồi núi, Đức Maria vẫn lên đường viếng thăm vì yêu thương. Chính tình thương đã thúc đẩy bước chân Mẹ. “Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ” (Is 52,7). Như thế, hình ảnh Đức Maria đang cưu mang Đấng Cứu Thế, băng ngàn để loan báo tin vui cũng chính là hình ảnh Isaia đã loan báo.
Cuộc viếng thăm là sự gặp gỡ giữa hai người mẹ, hai người con đang được cưu mang và giữa hai giao ước cũ và mới.
– Giữa hai người mẹ: Đức Maria thăm viếng là đem niềm vui có Chúa cho gia đình người chị họ. Ơ lại phục vụ người chị trong thời gian mang thai sinh con. Isave được ơn Thánh Thần đã xưng tụng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và đã ca tụng đức tin của Đức Mẹ.
– Giữa hai người con: Nghe lời chào của người mẹ cưu mang Đấng Cứu Thế, thì con trẻ Gioan trong lòng mẹ Isave nhảy mừng vui sướng.
– Giữa hai giao ước: Cuộc viếng thăm của Đức Mẹ là cuộc gặp gỡ giữa hai giao ước. Thời đại mới mở ra giao ước mới. Con Thiên Chúa làm người khai mở giao ước của thời đại ân sủng và tình yêu.
Cuộc viếng thăm của Đức Maria là cuộc viếng thăm của tình yêu.
Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra, chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động, không phải là một tình yêu đích thực. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn.
Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui buồn. Đức Phật nói: “Yêu nhau mà không được ở gần nhau, mà phải xa cách nhau thì sẽ đau khổ”. Ngài gọi cái khổ ấy là “ái biệt ly khổ”. Tục ngữ có câu: “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề!” (một ngày không gặp nhau thì dài như ba năm). Do đó, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau.
Đức Mẹ là mẫu gương tuyệt vời. Năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Những người bệnh tật, già cả, những người nghèo hèn, đau khổ, những người khô khan thờ ơ, những gia đình rối rắm bất hoà… Họ rất cần đựơc thăm viếng. Đến thăm nhau là một phương cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ, tình yêu thương của đạo Chúa.
Khi đến thăm bà Isave, Mẹ đem Chúa đến cho người thân của mình. Nhờ Mẹ mang Chúa đến, nên không chỉ bà Isave vui mừng, mà hài nhi trong lòng bà cũng vui theo mà “nhảy lên” hân hoan. Nhảy mừng diễn tả niềm vui. Đây là niềm vui ơn cứu độ. Sự hiện diện của Đức Maria mang đến niềm vui và còn có sự biến đổi khiến hai mẹ con bà Isave, được tràn đầy Thánh Thần, và nhờ đó nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Mẹ. Gia đình Bà Isave là gia đình đầu tiên được Chúa Cứu Thế viếng thăm. Đây là gia đình diễm phúc đón nhận niềm vui ơn cứu độ.
Đến thăm nhau không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến, mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần nhờ sự hiện diện của Chúa do ta mang đến. Chính Thánh Thần của Chúa trong ta sẽ thánh hóa, biến đổi họ nên tốt lành, thánh thiện hơn.
Lm. Anmai, CSsR
ĐỨC MARIA THĂM VIẾNG BÀ Ê-LI-SA-BÉT: NIỀM VUI CỨU ĐỘ VÀ SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO
Khi nghe các bài đọc Lời Chúa trong Thánh lễ kính Đức Maria thăm viếng bà Ê-li-sa-bét hôm nay, chúng ta như được hòa mình vào tiếng reo vui và những nụ cười hân hoan mừng rỡ. Niềm hân hoan và tiếng reo mừng này là tiếng reo vui của Dân Chúa sau hàng ngàn năm mong đợi lời hứa của Thiên Chúa nay đã được thực hiện. Đây không chỉ là niềm vui của hai người phụ nữ – Đức Maria và bà Ê-li-sa-bét – mà còn là niềm vui của toàn thể nhân loại, bởi Đấng Cứu Độ đã đến, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài. Cuộc thăm viếng của Đức Maria không chỉ là một hành động bác ái đơn thuần, mà còn là một sự kiện truyền giáo sâu sắc, một cuộc gặp gỡ thánh thiêng nơi ân sủng tuôn đổ dồi dào, niềm vui bừng lên mãnh liệt, và lời hứa cứu độ của Thiên Chúa được hoàn tất.
Cuộc thăm viếng của Đức Maria đến gia đình ông Gia-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét là một khoảnh khắc lịch sử trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Qua các bài đọc Lời Chúa, chúng ta cảm nhận được niềm hân hoan của Dân Chúa khi lời hứa của Ngài, được loan báo qua các tổ phụ và các ngôn sứ, nay đã trở thành hiện thực. Tiên tri Sô-phô-ni-a từng tiên báo: “Reo vui lên hỡi thiếu nữ Si-on, hò vang dậy đi nào nhà Ít-ra-en hỡi, vì Đức Chúa đã rút lại án phạt, đã đẩy lui quân thù, Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi chính là Đức Chúa.” Lời tiên tri này đã ứng nghiệm khi Đức Maria, với Chúa Giêsu trong cung lòng, đến viếng thăm bà Ê-li-sa-bét, mang theo Đấng Cứu Thế – vị Vua của Ít-ra-en – đến giữa dân Ngài.
Niềm vui này trước hết bừng lên trong tâm hồn hai người phụ nữ: Đức Maria và bà Ê-li-sa-bét. Tin Mừng kể rằng: “Trong những ngày ấy, Maria vội vã lên đường ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giu-đê và vào nhà ông Da-ca-ri-a – Ê-li-sa-bét.” Cụm từ “trong những ngày ấy” không chỉ ám chỉ thời điểm sau biến cố Truyền Tin, mà còn diễn tả sự sốt sắng và niềm hân hoan của Đức Maria khi thưa “xin vâng” với kế hoạch của Thiên Chúa. Ngay sau khi đón nhận lời mời gọi trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã cảm nhận một mầm sống mới – Con Thiên Chúa – đang lớn lên trong cung lòng mình. Niềm vui ấy không chỉ là niềm vui cá nhân của một người mẹ, mà là niềm vui của cả dân tộc Ít-ra-en và toàn thể nhân loại, bởi Đấng Cứu Độ đã đến, Thiên Chúa không còn ở xa, mà nay đang hiện diện giữa dân Ngài.
Cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Ê-li-sa-bét là một sự kiện tràn đầy Chúa Thánh Thần, nơi mà niềm vui cứu độ được lan tỏa qua những lời chào, những lời chúc tụng, và những bài ca ngợi khen. Khi Đức Maria cất tiếng chào, thai nhi Gioan trong lòng bà Ê-li-sa-bét đã nhảy lên vui mừng. Theo các thánh giáo phụ, niềm vui của Gioan không chỉ là một phản ứng tự nhiên, mà là một dấu chỉ thiêng liêng: vị Tiền Hô của Đấng Thiên Sai đã nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu ngay từ trong lòng mẹ. Niềm vui ấy là niềm vui của sự giải thoát, của việc được tẩy sạch tội nguyên tổ, và của việc được gặp gỡ Đấng Cứu Độ.
Được soi sáng bởi Chúa Thánh Thần, bà Ê-li-sa-bét đã cất lên những lời chúc tụng: “Em thật có phúc hơn mọi người nữ, và người con em cưu mang cũng được chúc phúc.” Lời tuyên xưng này không chỉ là một lời khen ngợi, mà là một lời tuyên bố đức tin, công nhận vai trò độc nhất của Đức Maria trong kế hoạch cứu độ. Đặc biệt, bà Ê-li-sa-bét là người đầu tiên gọi Đức Maria là “Mẹ Thiên Chúa” khi thốt lên: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi?” Đây là một tước hiệu cao trọng, khẳng định thần tính của Chúa Giêsu và vai trò đặc biệt của Đức Maria trong mầu nhiệm Nhập Thể. Bà Ê-li-sa-bét còn ca ngợi đức tin của Đức Maria: “Phúc cho em là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện.” Những lời này không chỉ tôn vinh Đức Maria, mà còn trở thành lời tuyên xưng của toàn thể Giáo Hội qua mọi thời đại.
Đáp lại, Đức Maria cất lên bài ca Magnificat, một bài thánh ca ngợi khen Thiên Chúa vì những kỳ công Ngài đã thực hiện: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, và thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi.” Mặc dù được gọi là Mẹ Thiên Chúa, Đức Maria vẫn khiêm nhường nhận mình là “nữ tỳ hèn mọn,” hoàn toàn phó thác cho tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Bài ca này không chỉ là lời ngợi khen cá nhân, mà còn là một lời tiên tri, loan báo về lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng nâng cao kẻ thấp hèn, lấp đầy kẻ đói khát, và thực hiện lời hứa với dân Ngài. Qua bài ca Magnificat, Đức Maria trở thành một ngôn sứ, một người mang Tin Mừng, và một chứng nhân sống động của tình yêu Thiên Chúa.
Cuộc thăm viếng của Đức Maria không chỉ là một chuyến đi thăm thân tình, mà còn là một hành trình truyền giáo. Khi mang Chúa Giêsu trong cung lòng, Đức Maria đã trở thành người đầu tiên mang Tin Mừng đến cho nhân loại. Hành trình “vội vã” của Mẹ đến miền núi Giu-đê cho thấy tinh thần sốt sắng và lòng bác ái của một người môn đệ đích thực. Mẹ không giữ niềm vui cứu độ cho riêng mình, mà muốn chia sẻ niềm vui ấy với người khác, đặc biệt là với bà Ê-li-sa-bét, người cũng đang trải nghiệm ơn lành của Thiên Chúa khi được mang thai ở tuổi già.
Thái độ “vội vã” của Đức Maria là một bài học sâu sắc cho mỗi người Kitô hữu. Một khi có Chúa trong tâm hồn, chúng ta không thể ngồi yên hay giữ Chúa cho riêng mình. Như Đức Maria, chúng ta được mời gọi mang Chúa đến cho người khác qua những hành động yêu thương, những lời nói chân thành, và những cử chỉ phục vụ khiêm nhường. Cuộc thăm viếng này cũng cho thấy rằng truyền giáo không nhất thiết phải là những bài giảng hùng hồn hay những hành động lớn lao. Đôi khi, chỉ một lời chào, một nụ cười, hay một hành động nhỏ bé được thực hiện với tình yêu và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần cũng đủ để mang ân sủng của Thiên Chúa đến với người khác.
Hơn nữa, Đức Maria còn cho thấy rằng để mang Chúa đến cho người khác, chúng ta cần có Chúa trong lòng. Mỗi lần tham dự Thánh Lễ và rước Chúa Thánh Thể, chúng ta cũng được mời gọi cưu mang Chúa trong tâm hồn mình, như Đức Maria đã cưu mang Chúa Giêsu. Nhưng liệu chúng ta có ý thức được sự hiện diện của Chúa? Liệu chúng ta có để Chúa hướng dẫn lời nói, hành động, và cách chúng ta đối xử với người khác? Hay chúng ta chỉ tham dự Thánh Lễ như một thói quen, mà không để Chúa chạm đến và biến đổi cuộc đời mình?
Cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Ê-li-sa-bét cũng là một lời nhắc nhở về vai trò quan trọng của người phụ nữ trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Cả hai người phụ nữ này đều được Thiên Chúa chọn để đóng những vai trò đặc biệt: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, còn bà Ê-li-sa-bét là mẹ của vị Tiền Hô. Qua đời sống của mình, họ đã cho thấy rằng người phụ nữ có một sứ mạng độc đáo trong việc mang Tin Mừng đến cho thế giới. Đức Maria, với lòng khiêm nhường và đức tin, đã trở thành hình mẫu của một người môn đệ trung tín, một người mẹ đầy yêu thương, và một người truyền giáo âm thầm. Bà Ê-li-sa-bét, với sự nhạy bén thiêng liêng, đã trở thành người đầu tiên tuyên xưng đức tin vào vai trò của Đức Maria và Chúa Giêsu.
Trong bối cảnh xã hội hôm nay, các người mẹ, người vợ, và người con gái được mời gọi noi gương Đức Maria và bà Ê-li-sa-bét. Họ được mời gọi trở thành những người mang Tin Mừng ngay trong chính gia đình và cộng đoàn của mình, không phải bằng những bài giảng lớn tiếng, mà bằng đời sống yêu thương, hy sinh, và cầu nguyện. Một người mẹ cầu nguyện cho con cái, một người vợ lắng nghe và chia sẻ với chồng, hay một người con gái giúp đỡ anh chị em mình – tất cả những điều này đều là những cách để mang Chúa đến với người khác. Vai trò của người phụ nữ không chỉ giới hạn trong việc chăm sóc gia đình về mặt vật chất, mà còn là việc nuôi dưỡng đời sống đức tin, gieo mầm hy vọng, và lan tỏa tình yêu của Thiên Chúa.
Cuộc thăm viếng của Đức Maria mời gọi mỗi người Kitô hữu suy nghĩ về cách chúng ta sống và tương tác với những người xung quanh. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta có vô số cơ hội để gặp gỡ, thăm hỏi, và chia sẻ với anh chị em mình. Nhưng liệu những cuộc gặp gỡ đó có thực sự mang lại giá trị thiêng liêng, hay chỉ là những khoảnh khắc xã giao thoáng qua? Liệu chúng ta có ý thức được rằng mình được mời gọi trở thành những “người mang Chúa” như Đức Maria, đem ánh sáng và niềm vui của Tin Mừng đến cho người khác?
Để trở thành người mang Chúa, chúng ta cần học theo gương Đức Maria: sống khiêm nhường, tin cậy vào Thiên Chúa, và luôn sẵn sàng phục vụ. Chúng ta cũng cần nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện và bí tích, để Chúa Thánh Thể thực sự trở thành nguồn sức mạnh cho sứ mạng truyền giáo của mình. Hơn nữa, chúng ta cần nhạy bén với nhu cầu của người khác, như Đức Maria đã nhận ra niềm vui và nỗi tủi nhục của bà Ê-li-sa-bét. Bằng cách lắng nghe, chia sẻ, và phục vụ với tình yêu, chúng ta có thể biến những cuộc gặp gỡ thường ngày thành những khoảnh khắc thánh thiêng, nơi mà ân sủng của Thiên Chúa được lan tỏa.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa vì gương sáng của Mẹ Maria, người đã vội vã lên đường để mang Chúa đến cho gia đình bà Ê-li-sa-bét. Xin Chúa giúp chúng con noi gương Mẹ, biết sống đời Kitô hữu cách trọn vẹn bằng cách yêu mến Chúa trên hết mọi sự và mang Chúa đến cho anh chị em mình. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng và hướng dẫn chúng con, để mỗi lời nói, hành động, và thái độ của chúng con đều trở thành những kênh chuyển tải ân sủng và niềm vui của Chúa.
Xin Chúa ban cho chúng con một trái tim nhạy bén, biết nhận ra sự hiện diện của Chúa trong Thánh Thể và trong những người xung quanh. Xin cho chúng con biết trân quý mỗi Thánh Lễ như một cơ hội để đón nhận Chúa vào lòng, và từ đó, mang Chúa đến với thế giới bằng đời sống yêu thương, phục vụ, và khiêm nhường. Đặc biệt, xin Chúa ban ơn cho các người mẹ, người vợ, và người con gái trong gia đình chúng con, để họ luôn noi gương Mẹ Maria, trở thành những người mang Tin Mừng bằng chính đời sống hy sinh và cầu nguyện của mình.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, xin cầu bầu cho chúng con, để chúng con biết sống xứng đáng với ơn gọi làm con cái Chúa. Xin Mẹ đồng hành với chúng con trên hành trình đức tin, giúp chúng con luôn hướng về Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng con.
Lm. Anmai, CSsR
ĐỨC MẸ ĐI VIẾNG: MANG NIỀM VUI VÀ ÂN SỦNG
Hôm nay, chúng ta cùng nhau cử hành Lễ Đức Mẹ Đi Viếng, một ngày lễ đặc biệt được Đức Giáo Hoàng Urban VI thiết lập vào năm 1389, đặt giữa Lễ Truyền Tin và Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả, phù hợp với trình thuật Phúc Âm. Ngày lễ này không chỉ nhắc chúng ta về chuyến đi thăm bà Elizabeth của Đức Maria, mà còn mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng tinh thần phục vụ, đức khiêm nhường, và niềm vui sâu sắc của Mẹ. Đây là ngày lễ kết thúc tháng Năm kính Đức Mẹ, tháng mà chúng ta đặc biệt tôn vinh Mẹ Maria như mẫu gương đức tin, lòng bác ái, và sự phó thác trọn vẹn vào Thiên Chúa.
Thánh Luca kể lại rằng, ngay sau khi được sứ thần Gabriel báo tin Mẹ sẽ cưu mang Đấng Cứu Thế, Đức Maria đã “vội vã” lên đường đến miền đồi núi Giuđêa để thăm bà Elizabeth, người chị họ đang mang thai trong tuổi già. Hành trình ấy không chỉ là một chuyến đi bộ dài bốn năm ngày qua những con đường bụi bặm, mà còn là một cuộc hành trình đức tin, mang theo Đấng Cứu Độ đến với nhân loại. Đức Maria đã trở thành “Nhà Tạm” đầu tiên, mang Chúa Giêsu đến cho gia đình ông Giacaria và bà Elizabeth, để chia sẻ niềm vui và ân sủng của Thiên Chúa.
Hôm nay, chúng ta hãy cùng nhau suy niệm về ba khía cạnh chính của Lễ Đức Mẹ Đi Viếng: phục vụ trong niềm vui, khiêm nhường trong đức tin, và bài ca Magnificat như lời tiên tri cho mọi thời đại. Qua đó, chúng ta học cách noi gương Mẹ, để mỗi bước chân của chúng ta trong cuộc sống cũng trở thành một hành trình mang Chúa đến cho tha nhân.
Ca Nhập Lễ hôm nay trích từ Thánh Vịnh: “Hãy đến mà nghe, hỡi tất cả các bạn là những người kính sợ Chúa, tôi sẽ kể cho các bạn những điều Người đã làm cho tôi.” Lời này dường như vang vọng tâm tình của Đức Maria khi Mẹ lên đường đến với bà Elizabeth. Mẹ không đi với tâm trạng miễn cưỡng hay bị ép buộc. Không ai, kể cả sứ thần hay bà Elizabeth, yêu cầu Mẹ phải thực hiện chuyến đi ấy. Nhưng chính tình yêu và lòng bác ái đã thúc đẩy Mẹ “vội vã” ra đi.
Hành trình của Đức Maria là biểu tượng của sự phục vụ vui tươi. Mẹ không chỉ mang theo sự giúp đỡ cụ thể – có lẽ là nấu ăn, dọn dẹp, hay chăm sóc bà Elizabeth trong những tháng cuối thai kỳ – mà còn mang theo niềm vui của một người mẹ được Thiên Chúa chúc phúc. Quan trọng hơn, Mẹ mang trong lòng mình Đấng Cứu Thế, nguồn vui đích thực cho toàn thể nhân loại. Sự hiện diện của Mẹ đã biến ngôi nhà của bà Elizabeth thành một nơi thánh thiêng, nơi Chúa Thánh Thần hoạt động mạnh mẽ.
Khi Đức Maria bước vào nhà ông Giacaria và cất lời chào, điều kỳ diệu đã xảy ra. Thánh Luca kể: “Bà Elizabeth vừa nghe tiếng Maria chào, thì hài nhi trong bụng nhảy lên vui mừng.” Không chỉ thai nhi Gioan nhảy mừng, mà chính bà Elizabeth cũng được tràn đầy Chúa Thánh Thần, thốt lên: “Em được chúc phúc hơn mọi người nữ, và Con trong lòng em cũng được chúc phúc.” Sự hiện diện của Đức Maria không chỉ mang lại niềm vui, mà còn trở thành kênh dẫn ân sủng, làm cho cả gia đình ông Giacaria được chìm ngập trong tình yêu Thiên Chúa.
Bài học cho chúng ta hôm nay là gì? Khi chúng ta đến với người khác – dù là gia đình, bạn bè, hay người xa lạ – chúng ta có mang theo niềm vui và sự hiện diện của Chúa không? Hay chúng ta chỉ mang đến những lo âu, phàn nàn, và sự nặng nề? Đức Maria dạy chúng ta rằng, phục vụ không chỉ là làm điều tốt, mà còn là làm điều tốt với một tâm hồn vui tươi, cởi mở, và đầy yêu thương. Mỗi hành động bác ái của chúng ta, dù nhỏ bé đến đâu, cũng có thể trở thành một “lời chào của Đức Maria,” làm cho người khác cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa.
Điều khiến chúng ta kinh ngạc ở Đức Maria là sự khiêm nhường thẳm sâu của Mẹ. Dù được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế – một vinh dự vượt trên mọi thụ tạo – Mẹ không hề tự cao hay coi mình là người đặc quyền. Trái lại, Mẹ đã hạ mình xuống để phục vụ bà Elizabeth, người chị họ lớn tuổi hơn mình. Mẹ không đến để khoe khoang về sứ mạng cao cả, cũng không tìm kiếm sự kính trọng hay ngưỡng mộ. Mẹ đến với một tâm hồn đơn sơ, sẵn sàng giúp đỡ, và chỉ muốn chia sẻ niềm vui của Thiên Chúa.
Sự khiêm nhường của Đức Maria bắt nguồn từ đức tin sâu sắc. Mẹ đã tin vào lời sứ thần: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Chính đức tin ấy đã thúc đẩy Mẹ lên đường, bất chấp những khó khăn của hành trình. Mẹ không đặt câu hỏi về những tiện nghi hay an toàn cá nhân. Mẹ chỉ biết rằng Thiên Chúa đã hành động trong đời mình và trong đời bà Elizabeth, và Mẹ muốn trở thành một phần của kế hoạch ấy.
Sự khiêm nhường của Đức Maria còn được thể hiện qua cách Mẹ đón nhận lời chào đầy tôn kính của bà Elizabeth. Thay vì tự hào hay chấp nhận những lời ca tụng, Mẹ đã hướng mọi vinh quang về Thiên Chúa qua bài ca Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.” Mẹ không giữ vinh dự cho mình, mà dâng tất cả lên Thiên Chúa, Đấng đã làm những điều kỳ diệu.
Chúng ta hãy tự hỏi: Trong cuộc sống, chúng ta có biết khiêm nhường như Đức Maria không? Khi được khen ngợi hay thành công, chúng ta có hướng vinh quang về Thiên Chúa, hay giữ lấy cho riêng mình? Khi phục vụ người khác, chúng ta có làm với tâm tình khiêm tốn, hay tìm kiếm sự công nhận? Đức Maria dạy chúng ta rằng, sự khiêm nhường không phải là tự hạ thấp mình, mà là nhìn nhận rằng mọi ơn lành đều đến từ Thiên Chúa, và chúng ta chỉ là những khí cụ trong tay Ngài.
Trong ngôi nhà của bà Elizabeth, Đức Maria đã cất lên bài ca Magnificat, một trong những bài thánh ca đẹp nhất trong Kinh Thánh. Bài ca này không chỉ là lời tạ ơn Thiên Chúa vì những điều kỳ diệu Ngài đã làm cho Mẹ, mà còn là một lời tiên tri, công bố chương trình cứu độ của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Mẹ hát: “Chúa đã đoái thương nhìn tới phận hèn tớ nữ… Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả… Ngài lật đổ người quyền thế khỏi ngai vàng, và nâng cao những kẻ thấp hèn.”
Magnificat là bài ca của niềm vui, nhưng cũng là bài ca của công lý. Qua lời ca này, Đức Maria công bố rằng Thiên Chúa luôn đứng về phía những người bé nhỏ, khiêm nhường, và bị áp bức. Ngài hạ bệ những kẻ kiêu ngạo, lấp đầy kẻ đói khát, và nâng cao những ai bị lãng quên. Đây không chỉ là lời ca ngợi, mà còn là lời mời gọi chúng ta sống theo tinh thần của Thiên Chúa: yêu thương người nghèo, bênh vực kẻ yếu, và xây dựng một thế giới công bằng hơn.
Bài ca Magnificat cũng nhắc chúng ta rằng, Thiên Chúa hành động trong sự thinh lặng và khiêm tốn. Ngài không đến với quyền lực của thế gian, nhưng qua những con người đơn sơ như Đức Maria, như bà Elizabeth, hay như mỗi người chúng ta. Mẹ Maria, một thiếu nữ vô danh từ Nazareth, đã trở thành Nữ Vương Thiên Quốc, không phải vì tài năng hay quyền lực, mà vì Mẹ đã hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa. Điều này khích lệ chúng ta rằng, dù chúng ta nhỏ bé hay bất toàn, Thiên Chúa vẫn có thể dùng chúng ta để thực hiện những điều kỳ diệu.
Khi chúng ta kết thúc tháng Năm kính Đức Mẹ, Lễ Đức Mẹ Đi Viếng mời gọi chúng ta nhìn lại cách chúng ta sống đức tin mỗi ngày. Đức Maria dạy chúng ta rằng, đức tin không chỉ là cầu nguyện hay tham dự thánh lễ, mà còn là hành động cụ thể: phục vụ người khác với niềm vui, sống khiêm nhường trong mọi hoàn cảnh, và cất lên lời ngợi khen Thiên Chúa qua đời sống của mình.
Hãy để mỗi bước chân của chúng ta trở thành một “chuyến đi viếng” như Đức Maria. Khi đến với người khác, chúng ta không chỉ mang theo sự hiện diện của mình, mà còn mang theo Chúa Giêsu, Đấng đang sống trong tâm hồn chúng ta. Hãy để lời kinh Magnificat vang lên trong lòng chúng ta mỗi khi chúng ta nhận ra tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa. Và hãy nhớ rằng, mỗi hành động bác ái, mỗi nụ cười, mỗi lời nói yêu thương, đều có thể làm cho “thai nhi nhảy mừng” trong tâm hồn người khác, như thánh Gioan đã nhảy mừng trước sự hiện diện của Chúa.
Chúng ta hãy cầu xin Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, giúp chúng ta noi gương Mẹ trong sự phục vụ, khiêm nhường, và niềm vui. Xin Mẹ đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường, để chúng ta trở thành những khí cụ mang ân sủng và bình an của Chúa đến cho thế giới. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
Lễ Đức Maria Thăm Viếng Bà Êlisabét – Hành Trình Của Tình Yêu, Phục Vụ và Khiêm Nhường
Lễ Đức Maria thăm viếng Bà Êlisabét là một ngày lễ đặc biệt trong năm phụng vụ của Giáo hội Công giáo, mang ý nghĩa sâu sắc về tình yêu, sự phục vụ và lòng khiêm nhường. Trước đây, lễ này được cử hành vào ngày 2 tháng 7, trong tuần bát nhật lễ sinh nhật Thánh Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, theo sắc lệnh cải cách lịch Giáo triều Rô-ma của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI năm 1969, lễ được chuyển sang ngày 31 tháng 5. Sự thay đổi này mang ý nghĩa thần học quan trọng, bởi nó đặt lễ Đức Maria thăm viếng trong khoảng thời gian ba tháng, từ lễ Truyền Tin (25 tháng 3) đến lễ sinh nhật Thánh Gioan Tiền Hô (24 tháng 6), phản ánh hành trình thiêng liêng của Đức Maria từ khi nhận lãnh sứ mạng cưu mang Đấng Cứu Thế đến khi mang niềm vui cứu độ đến cho gia đình bà Êlisabét. Nguồn gốc của lễ này bắt nguồn từ thế kỷ VI, khi Giáo hội bắt đầu suy tôn biến cố Đức Maria thăm viếng bà Êlisabét như một dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa và sự hiện diện của Đấng Cứu Thế trong lòng Mẹ. Đến thế kỷ XIII, Thánh Bônaventura và Dòng Phanxicô đã góp phần lớn trong việc phổ biến lễ này khắp Tây Phương. Năm 1389, Đức Giáo Hoàng Boniface IX chính thức truyền bá lễ này trên toàn thể Giáo hội La tinh, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng. Tuy nhiên, chỉ đến Công đồng Bâle năm 1441, lễ này mới thực sự lan rộng và trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống đức tin của các tín hữu Công giáo toàn cầu. Lễ này không chỉ là một sự kiện phụng vụ mà còn là lời mời gọi các tín hữu nhìn lại hành trình đức tin của Đức Maria – từ một cô gái trẻ ở làng Nazareth trở thành Mẹ Thiên Chúa, mang trong mình Đấng Cứu Thế và sẵn sàng lên đường thực hiện ý Chúa.
Ngay sau khi nhận lời loan báo từ Tổng lãnh Thiên thần Gabriel rằng Mẹ sẽ cưu mang Con Thiên Chúa, Đức Maria lập tức lên đường đến miền núi xứ Giu-đê-a để thăm bà Êlisabét, người chị họ đang mang thai tháng thứ sáu. Hành trình từ Nazareth đến vùng đồi núi Giu-đê-a không hề dễ dàng, nhất là với một thiếu nữ trẻ như Đức Maria, lại đang mang thai. Đường sá xa xôi, địa hình hiểm trở và những khó khăn của thời đại ấy không thể ngăn cản bước chân của Mẹ. Trong lòng Đức Maria, chỉ có một động lực duy nhất: mang niềm vui cứu độ đến cho người khác, mang Chúa Giêsu – món quà quý giá nhất – đến với gia đình bà Êlisabét. Sự “vội vã” của Đức Maria không phải là sự hấp tấp hay thiếu suy nghĩ, mà là sự vội vã của một trái tim tràn đầy lửa Thánh Thần, khao khát chia sẻ tình yêu và ơn phúc của Thiên Chúa. Mẹ không nghĩ đến bản thân, không lo lắng về sức khỏe hay những nguy hiểm trên hành trình. Mẹ chỉ mang trong lòng niềm hân hoan, một sự thúc đẩy mãnh liệt bởi tình yêu thương và lòng biết ơn Thiên Chúa. Hành trình của Mẹ là hình ảnh sống động của đời sống Kitô hữu: một đời sống sẵn sàng ra đi, phục vụ và trao ban mà không toan tính. Mẹ đã vượt qua mọi trở ngại để mang Chúa đến cho người khác, để chia sẻ niềm vui cứu độ và trở thành dấu chỉ của lòng thương xót Thiên Chúa. Hành trình ấy nhắc nhở chúng ta rằng, trong cuộc sống, chúng ta cũng được mời gọi bước đi với lòng quảng đại, không ngại khó khăn, để mang tình yêu và niềm hy vọng đến cho những người xung quanh.
Khi Đức Maria bước vào nhà bà Êlisabét, một điều kỳ diệu đã xảy ra. Thánh Gioan Tẩy Giả, thai nhi trong lòng bà Êlisabét, đã “nhảy mừng” như một dấu chỉ của niềm vui cứu độ. Đây không chỉ là cuộc gặp gỡ giữa hai người phụ nữ, hai người mẹ, mà còn là cuộc gặp gỡ giữa Đấng Cứu Thế và vị Tiền Hô của Ngài. Đức Maria mang trong lòng Chúa Giêsu, Đấng sẽ cứu chuộc nhân loại; còn bà Êlisabét cưu mang Thánh Gioan, người được sai đi để dọn đường cho Chúa. Chính Chúa Thánh Thần đã hiện diện, kết nối và thánh hóa khoảnh khắc ấy, biến cuộc viếng thăm gia đình thành một biến cố thiêng liêng, nơi tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ một cách sống động. Bà Êlisabét, được tràn đầy Thánh Thần, đã cất tiếng chào Đức Maria: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc.” Lời chào này không chỉ công nhận vai trò đặc biệt của Đức Maria mà còn là lời tuyên xưng đức tin vào sự hiện diện của Đấng Cứu Thế trong lòng Mẹ. Cuộc gặp gỡ này dạy chúng ta về sự nhạy bén thiêng liêng: bà Êlisabét đã nhận ra sự hiện diện của Chúa qua sự hiện diện của Đức Maria. Điều này nhắc nhở chúng ta rằng, trong đời sống đức tin, chúng ta cũng được mời gọi nhận ra Chúa trong những khoảnh khắc đơn sơ, trong những con người bình dị mà chúng ta gặp gỡ hàng ngày. Cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Êlisabét là lời mời gọi chúng ta mở lòng để nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống, để biết đón nhận và chia sẻ niềm vui cứu độ với những người xung quanh.
Trong khoảnh khắc gặp gỡ linh thánh ấy, Đức Maria đã cất lên bài ca Magnificat, một bài thánh thi tuyệt đẹp ngợi khen Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi.” Bài ca này không chỉ là lời đáp trả của Đức Maria trước lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa mà còn là một lời tuyên xưng đức tin sâu sắc về kế hoạch cứu độ của Ngài. Qua bài ca Magnificat, Đức Maria bày tỏ lòng khiêm nhường, sự biết ơn và niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đấng đã chọn một nữ tỳ hèn mọn để thực hiện công trình vĩ đại. Đức Maria không tự cao về vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, mà ngược lại, Mẹ nhận mình chỉ là một “nữ tỳ hèn mọn.” Sự khiêm nhường của Mẹ là điểm tựa để chúng ta học hỏi. Trong một thế giới thường đề cao cái tôi và sự tự mãn, bài ca Magnificat nhắc nhở chúng ta rằng sự cao cả thực sự nằm ở việc nhận ra sự nhỏ bé của mình trước mặt Thiên Chúa và sẵn sàng để Ngài sử dụng chúng ta cho những mục đích cao cả. Bài ca Magnificat cũng là lời mời gọi mỗi người chúng ta suy ngẫm về vai trò của mình trong kế hoạch của Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi sống với lòng khiêm nhường, biết ơn và tin tưởng, để trở thành những khí cụ của Thiên Chúa trong việc mang tình yêu và ơn cứu độ đến cho thế giới. Lời ngợi khen của Đức Maria không chỉ là một bài ca của quá khứ mà còn là một lời kinh sống động, thúc đẩy chúng ta cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa qua đời sống đức tin và những hành động yêu thương.
Cuộc thăm viếng của Đức Maria không chỉ là một sự kiện lịch sử mà còn mang một sứ điệp vượt thời gian: hãy mang Chúa đến cho người khác. Đức Maria đã mang Chúa Giêsu – nguồn mạch của mọi ơn phúc – đến với gia đình bà Êlisabét, và qua đó, Mẹ đã trao ban niềm vui, sự bình an và tình yêu. Hôm nay, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi trở thành những “sứ giả” như Đức Maria, mang Chúa đến với thế giới qua những hành động yêu thương, những cử chỉ bác ái và sự hiện diện đầy cảm thông. Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy những thách đố: sự ích kỷ, chia rẽ, bất công và vô cảm dường như đang chiếm lĩnh nhiều khía cạnh của đời sống. Nhưng chính trong bối cảnh ấy, sứ điệp của Đức Maria càng trở nên cấp thiết. Chúng ta được mời gọi noi gương Mẹ, biết nhạy bén trước những nhu cầu của người khác, sẵn sàng ra đi để chia sẻ niềm vui và mang Chúa đến với những người đang cần sự an ủi, nâng đỡ. Một nụ cười chân thành, một lời nói khích lệ, một hành động giúp đỡ nhỏ bé – tất cả đều có thể trở thành những “cuộc thăm viếng” mang Chúa đến với tha nhân. Sứ điệp này nhắc nhở chúng ta rằng, tình yêu Thiên Chúa không chỉ được cảm nhận trong những khoảnh khắc lớn lao mà còn trong những cử chỉ đơn sơ, những hành động bình dị của đời thường. Chúng ta được mời gọi sống như Đức Maria, mang trong mình Chúa Giêsu và chia sẻ Ngài với thế giới, để ánh sáng của Ngài chiếu soi trong bóng tối của đau khổ, tuyệt vọng và cô đơn.
Sau cuộc gặp gỡ đầy niềm vui, Đức Maria không vội vã rời đi. Mẹ đã ở lại với bà Êlisabét khoảng ba tháng, đồng hành và giúp đỡ người chị họ trong những ngày cuối của thai kỳ. Đây là một chi tiết rất ý nghĩa, bởi nó cho thấy Đức Maria không chỉ đến để “thăm viếng” mà còn để dấn thân, phục vụ và chia sẻ. Mẹ đã sống âm thầm, khiêm nhường và tận tụy, trở thành một người bạn, một người chị, một người mẹ trong gia đình bà Êlisabét. Hành động ở lại của Đức Maria dạy chúng ta bài học về sự kiên nhẫn và dấn thân trong việc phục vụ. Yêu thương không chỉ là những khoảnh khắc bộc phát mà còn là sự hiện diện bền bỉ, sự đồng hành lâu dài và sự sẵn sàng hy sinh vì người khác. Trong đời sống gia đình, cộng đoàn và xã hội, chúng ta được mời gọi noi gương Đức Maria, biết dành thời gian, công sức và trái tim để giúp đỡ những người xung quanh, đặc biệt là những người đang cần sự hỗ trợ nhất. Sự hiện diện của Đức Maria trong gia đình bà Êlisabét là một lời nhắc nhở rằng, đôi khi, món quà quý giá nhất chúng ta có thể trao tặng không phải là vật chất mà là thời gian, sự quan tâm và tình yêu chân thành. Qua hành động ở lại và phục vụ, Đức Maria đã cho chúng ta thấy rằng, mỗi người chúng ta đều có thể trở thành dấu chỉ của lòng thương xót Thiên Chúa, mang lại niềm vui và sự an ủi cho những người xung quanh.
Lễ Đức Maria thăm viếng Bà Êlisabét là một lời nhắc nhở sống động rằng đời sống Kitô hữu là một hành trình mang Chúa đến cho người khác. Qua hành trình vội vã, trái tim khiêm nhường và sự phục vụ tận tụy của Đức Maria, chúng ta được mời gọi suy ngẫm về cách chúng ta sống đức tin của mình. Liệu chúng ta có sẵn sàng ra đi, mang niềm vui và tình yêu đến cho tha nhân? Liệu chúng ta có đủ nhạy bén để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong những khoảnh khắc đơn sơ của cuộc sống? Và liệu chúng ta có sẵn lòng ở lại, đồng hành và phục vụ những người cần đến chúng ta? Hãy để Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta, như Ngài đã từng hướng dẫn Đức Maria. Hãy để bài ca Magnificat trở thành lời kinh của trái tim chúng ta, ngợi khen Thiên Chúa và tuyên xưng lòng thương xót của Ngài. Và trên hết, hãy để mỗi ngày sống của chúng ta trở thành một “cuộc thăm viếng linh thánh,” nơi chúng ta mang Chúa đến cho thế giới, mang niềm vui đến cho tha nhân, và mang tình yêu của Thiên Chúa đến với mọi người. Đức Maria đã dạy chúng ta rằng, mỗi hành động yêu thương, mỗi cử chỉ bác ái, mỗi sự hiện diện chân thành đều có thể trở thành một cuộc viếng thăm mang lại ơn phúc và niềm vui. Vì thế, chúng ta hãy bước đi theo con đường của Mẹ, mang trong lòng ngọn lửa của Chúa Thánh Thần, và để đời sống của mình trở thành một bài ca Magnificat sống động, ngợi khen Thiên Chúa qua những việc làm cụ thể và trái tim rộng mở. Lễ Đức Maria thăm viếng không chỉ là một ngày để tưởng nhớ một biến cố trong quá khứ mà còn là một lời mời gọi cấp thiết để chúng ta sống đức tin một cách trọn vẹn, mang Chúa đến với thế giới và làm cho tình yêu của Ngài được lan tỏa trong mọi ngõ ngách của cuộc sống. Chúng ta hãy noi gương Đức Maria, sống với lòng khiêm nhường, yêu thương và phục vụ, để mỗi bước đi của chúng ta đều trở thành một cuộc viếng thăm mang lại niềm vui, ơn phúc và tình yêu của Thiên Chúa cho tha nhân.
Lm. Anmai, CSsR