skip to Main Content

10 bài suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật III Phục Sinh năm C (của Lm. Anmai, CSsR)

DÙ CÓ CHỐI NHƯNG HÃY YÊU NHƯ PHÊRÔ!

Mặc dầu trước mặt Thiên Chúa, Đức Giêsu phục sinh là Đấng đầy tràn vinh quang, tuy nhiên đối với Giáo hội trên trần gian, Người lại muốn hiện diện một cách khác: Người muốn tỏ ra là một người bạn rất gần gũi với tất cả mọi người, gần trong mọi cảnh sống của con người. Và rồi, trong những khoảnh khắc sống đó, các môn đệ bất chợt nhìn ra Thầy của mình.

Trang Tin Mừng vừa nghe, ta thấy câu chuyện đã xảy ra trên bờ hồ Tibêriade, xứ Galiêa, nơi các môn đệ đã quen thuộc với nghề đánh cá. Đây cũng là nơi các ông đã được Chúa báo trước rằng: Các ông sẽ gặp Ngài tại Galilêa. Ta dừng lại những chi tiết thật đơn sơ trong bài Tin mừng hôm nay, để nhận ra sự hiện diện rất gần gũi thân thương của Đấng Phục Sinh.

Thật ra, cả đêm các môn đệ quá vất vả để đánh cá suốt đêm trên biển hồ Tibêria nhưng kết quả là không bắt được con cá nào cả. Khi Đức Giêsu hiện đến, Ngài đã giúp họ vượt qua. Ngài rất gần gũi, Ngài thăm hỏi như một người bạn có sự quan tâm và khi thấy họ gặp khó khăn: “Này các chú, không có gì ăn ư?” (Ga 21, 5b). Nói cách khác, có thể diễn giải: Thầy đói rồi, có cái gì cho Thầy ăn không?

Suốt cả đêm vật vả nhưng không có gì. Quả là quá chuyên nghiệp nhưng không có con nào cũng là điều dễ hiểu với tâm trạng đầy thất vọng. Cái biển mà các ông thả cá đêm qua dường như các ông quen đến độ từng con sóng. Đến sáng, theo sự chỉ dẫn của một người lạ mặt trên bờ hồ, các ông đã đánh được một mẻ cá lớn. Mẻ cá lạ lùng này đã giúp các ông nhận ra Chúa Giêsu, Thầy của các ông. Người nhận ra Chúa đầu tiên cũng chính là Gioan, vị môn đệ được Ngài yêu thương.

Sau khi sống lại, qua các lần hiện ra dọc theo Tin Mừng ta cũng đã bắt gặp thái độ này của Chúa Giêsu khi Ngài hiện ra với bà Maria Mađalêna. Ngài hiện diện như một người làm vườn và thăm hỏi khi thấy nỗi khổ của người khác: “Này bà sao bà khóc?” (Ga 20, 13) Bà tìm ai? Còn đối với hai môn đệ trên đường Em-mau thì sao? Vẫn thần thái đó, vẫn cách thức đó, Ngài hiện diện như một khách hành hương và đồng cảm với những suy nghĩ lo lắng hoang mang của họ: “Các ông vừa đi vừa nói những chuyện gì vậy?” (Lc 24, 17).

Ta lại thấy một chi tiết rất thân tình và đơn sơ trong trang Tin mừng hôm nay. Ngài hiện đến như một người đồng nghiệp, quan tâm đến sự thành công hay thất bại của bạn hữu mình. Khi các môn đệ gặp thất bại: “suốt đêm ấy họ không bắt được gì cả” ( Ga 21, 3b), thì Người gợi ý: “Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá”( Ga 21, 6a)

Đức Giêsu phục sinh vẫn hiện diện và có đó. Ngài hiện diện một cách rất gần gũi trong cuộc đời của ta, khi ta lao động vất vả và nhất là chịu đựng những thất bại. Chúa hiện diện để thông cảm với những khó nhọc của chúng ta và đôi khi, Ngài tìm cách để giúp ta tháo gỡ những khúc mắc mà chính ta không tài nào thoát ra được.

Noi gương các tông đồ, ta phải biết lắng nghe để nhận ra ý Chúa và thực thi mau mắn. Các ngài đã làm theo gợi ý của Chúa, nên các Ngài đã thành công: “các ông thả lưới xuống , nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá” (Ga 21, 6b).

Sau khi Thầy trò đã ăn điểm tâm xong, Người bắt đầu phỏng vấn thủ lãnh Phêrô để trao cho ông sứ vụ mới: “Này anh Simon, con ông Giona, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?”.

Thật tình, ông rất ngượng ngùng vì ông mới chối Thầy tới ba lần, mà giờ đây Người lại hỏi ông có yêu mến Thầy không? Mới phản bội mà giờ lại nói yêu thương, quả là rất khó khăn; hơn nữa. Người lại hỏi tới ba lần! Có lẽ Phêrô đang nhớ lại lời Chúa nói trước đây: “Kẻ nào được tha nhiều thì sẽ yêu nhiều hơn”.

Và rồi ta thấy nét đẹp là Chúa đã tha thứ cho Phêrô ngay lúc Người quay xuống nhìn ông từ trên dinh thượng tế, khiến nước mắt ông tuôn trào.

Ba lần chối Chúa thì ba lần Người cho ông cơ hội để nói lời yêu thương, để tuyên xưng lại niềm tin. Ông đã không bỏ lỡ cơ hội: “Thưa Thầy có, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Và cũng ba lần, Người trao cho ông sứ mạng cai quản Hội thánh của Người: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy”.

Cuộc đời của chúng ta đôi khi cũng giống như Phêrô năm nào. Đã nhiều lần chúng ta chối Chúa, bỏ Chúa để chạy theo danh lợi thú trần gian. Đã nhiều lần chúng ta xúc phạm tới tha nhân trong lời nói và hành động. Và chắc chắn cũng có nhiều lần chúng ta bị mặc cảm vì những hành động tội lỗi của mình. Chúa vẫn tha thứ cho chúng ta. Chúa vẫn tạo cho chúng ta rất nhiều cơ hội để chuộc lại lỗi lầm. Chúa vẫn muốn trao cho chúng ta rất nhiều trọng trách trong việc hướng dẫn anh em. Dù rằng chúng ta không xứng đáng. Dù rằng chúng ta vẫn còn đó bản tính xác thịt yếu đuối. Chúa không muốn chúng ta mãi mãi sống trong mặc cảm tội lỗi, nhưng hãy chuộc lại lỗi lầm, hãy hết mình phục vụ cho danh Chúa được cả sáng trên trần gian.

Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta hãy vì Chúa mà tha thứ cho nhau. Hãy tạo cho nhau những cơ hội để sửa lại lỗi lầm. “Ai nên khôn mà không dại một lần”. Ai cũng cần tình yêu để sống và cần sự tha thú để tồn tại. Vì vậy, chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau và giúp nhau hoàn thiện con người của mình.

Lm. Anmai, CSsR

 

 

CÓ CHÚA, CON THUYỀN CUỘC ĐỜI VƯỢT SÓNG

Suốt đêm hôm ấy, những cánh tay chai sạn của Phêrô và các bạn ông đã miệt mài kéo lưới. Tiếng mái chèo khua vào mặt nước Galilê vang lên đơn điệu, hòa vào màn sương còn đọng hơi đêm lạnh. Vậy mà rạng đông vừa hửng, tấm lưới vẫn nhẹ tênh, trống không. Câu Tin Mừng thật đơn sơ: “Suốt đêm hôm ấy, các ông chẳng bắt được một con cá nào” (Ga 21,3). Nhưng phía sau sự kiện ấy là cả một biển trời tâm trạng – nỗi trống rỗng của những người vừa trải qua biến cố Thập Giá, vừa chứng kiến Thầy mình phục sinh, mà vẫn như lạc lõng, chưa biết tiếp tục đời tông đồ thế nào.

Cảm giác ấy, thưa cộng đoàn, chẳng xa lạ gì với chúng ta. Đã bao lần ta dốc hết sức cho công việc, gia đình, lý tưởng; đã bao đêm thức trắng vì bài vở, vì dự án, vì những kế hoạch cháy bỏng… rồi bình minh đến mà thành quả hầu như chẳng có gì, chỉ còn đôi tay mỏi và trái tim hụt hẫng. Câu chuyện đêm lưới trống của Phêrô vẫn tái diễn nơi biển đời từng người, để nhắc chúng ta rằng: không có Chúa, thành công chỉ là ảo ảnh; với Chúa, thất bại biến thành khởi điểm nhiệm mầu.

Thánh Vịnh 127 từ ngàn xưa đã ghi khắc một chân lý không phai: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả chỉ là uổng công; thành trì Chúa chẳng giữ trông, hùng binh kiện tướng cũng không ra gì.” Kinh nghiệm muôn đời ấy, Chúa Giêsu xác nhận khi nói với các môn đệ: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Không phải Thiên Chúa phủ nhận khả năng chúng ta; trái lại, Ngài trao ban trí tuệ, nghị lực, tài năng cho mỗi người. Nhưng Ngài cũng cho thấy sự bất toàn của thụ tạo khi tách mình khỏi nguồn mạch sự sống. Tự tin, nghị lực, ý chí – tất cả rất đáng quý – song vẫn chỉ là “một phần góp nhỏ bé”, như lời tác giả đã gợi, vì thành công sau cùng tùy nơi Đấng cầm quyền sinh tử và dẫn dắt lịch sử.

Lịch sử cứu độ tràn ngập minh chứng. Tháp Babel – biểu tượng kiêu căng của loài người muốn vươn tới trời cao – đã sụp đổ trong tiếng ồn ngôn ngữ bất đồng. Đội quân Ai Cập với xa mã hùng mạnh bị vùi dưới lòng Biển Đỏ khi vươn tay bắt dân Chúa. Holopherne kiêu hãnh ngã gục trước một phụ nữ Giuđitha mảnh mai nhưng đầy lòng trông cậy. Môsê già nua chỉ cần giang tay cầu nguyện là giúp Israel chiến thắng, nhưng hễ buông tay thì dân lập tức thất thế. Những trang Cựu Ước ấy không chỉ kể chuyện xa xưa; chúng đang phản chiếu quy luật bất biến: uy quyền của con người – dù chính trị, kinh tế, kỹ thuật – chỉ bền khi hòa vào quyền năng Thiên Chúa; tách khỏi Ngài, nó mong manh hơn cả tơ nhện.

Tin Mừng Phục Sinh hôm nay đưa chúng ta trở lại bờ hồ Tibêria sau đêm thất bại. Khi bình minh bàng bạc soi mặt nước, một Người lạ đứng trên bãi cát, khẽ hỏi: “Các con có gì ăn không?” Câu hỏi tưởng như bình thường ấy đánh thức thực tại trống rỗng. Phêrô thú thật: “Thưa, không.” Từ chỗ nhìn nhận thất bại, họ để mình được hướng dẫn: “Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền.” Và chỉ cần một động tác vâng phục, lưới căng đầy 153 con cá lớn, đến nỗi suýt rách. Họ nhận ra: “Chính Ngài đó!” – Đấng Phục Sinh đang hiện diện và biến lao nhọc vô ích thành mẻ cá lạ lùng.

Sự thay đổi ngoạn mục ấy diễn ra ngay lúc các môn đệ ngoan ngoãn làm điều tưởng chừng vô lý: di chuyển lưới chỉ vài thước từ trái sang phải. Thiên Chúa không đòi chúng ta tung lưới ở đại dương xa lạ; Ngài chỉ xin ta bước nhỏ của lòng tin – chuyển hướng nhìn, đổi cách làm, để ý đến tiếng nói của Lời, can đảm sửa một thói quen xưa cũ. Thành công bắt đầu từ thao tác bé nhỏ nhưng khởi đi bằng vâng phục.

Nhưng mẻ cá lạ đâu chỉ nhắm đến thành quả vật chất. Cử chỉ Chúa dựng bếp than, nướng cá, bẻ bánh và trao cho các ông gợi nhớ Bữa Tiệc Ly – nguồn mạch Thánh Thể. Đức Giêsu không chỉ trả lại cho Phêrô nghề nghiệp; Ngài tái lập ơn gọi tông đồ: “Hãy chăn dắt chiên Thầy.” Sau linh thao thất bại–thành công, sau bữa sáng phục sinh, Ngài khép lại bằng lời mời bước theo: “Hãy theo Thầy.” Điều đó cho thấy: thành công Kitô hữu không dừng ở cá đầy thuyền, thi đậu, dự án thắng lợi, gia đình no ấm… Tất cả những điều ấy chỉ có ý nghĩa trọn vẹn khi dẫn ta trở lại sứ mạng yêu thương phục vụ. Một “mẻ cá lạ” đích thực là ơn trợ lực để ta đứng dậy, nuôi sống, xây dựng cộng đoàn, loan báo Tin Mừng.

Chiêm ngắm câu chuyện Ga 21, ta học được ba bí quyết sống còn.

Thứ nhất, dám đối diện sự trống rỗng. Phêrô không ngụy biện, không đổ lỗi. Ông khiêm tốn thú thực: “Chúng con không có gì.” Thú nhận giới hạn là cửa ngõ đón nhận ơn Chúa. Trong đời sống hôn nhân, nghề nghiệp, mục vụ, bao lần ta che giấu thất bại, sợ người khác biết, sợ mình xấu hổ. Nhưng chính lúc ngửa tay nhìn nhận khoảng trống, ta mới để bàn tay quyền năng chen vào.

Thứ hai, can đảm thay đổi theo lời Chúa. Thả lưới bên phải đòi các ông phải di chuyển trọng tâm, gỡ bỏ thói quen lâu năm. Nhiều khi ta thất bại không phải vì thiếu cố gắng, mà vì cứng nhắc. Chúa vẫn âm thầm nhắc: “Con hãy thử cách khác. Tha thứ thêm lần nữa. Cầu nguyện sớm hơn. Ngưng phụ thuộc điện thoại. Dành thời gian cho con cái. Học lại Giáo Lý…” Ai biết ngoan ngoãn chỉnh hướng, sẽ thấy “mẻ cá” của bình an và hoa trái thiêng liêng.

Thứ ba, quy chiếu mọi thành công về tình yêu mục tử. Đức Giêsu ba lần hỏi Phêrô: “Con có yêu Thầy không?” trước khi trao nhiệm vụ. Người vừa khôi phục sự gắn bó cá nhân, vừa gắn trách nhiệm phục vụ. Đời Kitô hữu chỉ trọn vẹn khi thành công đổ vào phục vụ: khoa học vì con người, kinh tế vì công ích, trí tuệ vì Tin Mừng, chức quyền vì người bé mọn. Nếu một ngày ta quên mục tiêu ấy, chiếc thuyền sẽ lại trống lưới, và biển đời thành đêm vô nghĩa.

Từ kho báu Lời Chúa, ta trở về đời sống thực tế. Học sinh, sinh viên đang mùa thi – cứ học chăm, lập kế hoạch, tự tin vào khả năng, nhưng hơn hết là gắn kết với Chúa bằng cầu nguyện, thánh lễ, lương tâm ngay thẳng. Nhà nông cần lập lịch gieo trồng, áp dụng khoa học, nhưng cũng nhớ xin Chúa ban mưa thuận gió hòa. Người kinh doanh tính toán khởi nghiệp, cần sáng tạo, kiên trì, song đừng quên nền tảng đạo đức và cầu khẩn ơn soi sáng để không lạc lối tham lam. Gia đình trẻ hãy dành thời giờ cho nhau, cầu nguyện chung, mời Chúa vào bàn ăn, vào những cuộc trò chuyện, để tình yêu vợ chồng không cạn kiệt như đêm trắng vô ích. Các linh mục, tu sĩ, giáo lý viên, tông đồ giáo dân – trước khi lao vào chương trình mục vụ, hãy lưu lại bãi bờ với Đấng Phục Sinh, lắng nghe Ngài chỉ dẫn “bên phải thuyền” của thời đại hôm nay: những phương thế mới, ngôn ngữ mới, nhưng vẫn một tâm hồn yêu mến và khiêm nhu.

Có Chúa đi cùng, mọi khổ nhọc biến thành cơ hội. Tất cả thất bại vì yếu đuối, vì tội lỗi, thậm chí vì người khác gây nên, đều có thể hóa nên mẻ cá dồi dào nếu ta biết để Lời Người vang lên trong đêm tối. Đức tin không miễn chúng ta khỏi giông bão, nhưng biến thuyền nhỏ thành chiến hạm nhờ quyền năng Thánh Thần. Tiến sĩ Hội Thánh Têrêsa thành Lisieux từng nói: “Tin cậy là không cậy gì nơi mình, nhưng phó mình cho quyền năng của Chúa.”

Vì thế, giữa thế giới chạy theo thành công tức thời, chúng ta được mời gọi làm chứng cho một thành công khác: thành công của lòng tin, của tình yêu cứu độ. Khi cha mẹ kiên trì đối thoại với đứa con nghiện trò chơi điện tử, khi người vợ vẫn nhẫn nại cầu nguyện cho người chồng sa ngã, khi doanh nhân dám khước từ món lời bất chính, khi sinh viên đứng thẳng trước cám dỗ gian lận… bấy giờ, lưới đức tin đang được thả đúng mạn thuyền, và 153 “con cá lớn” – tượng trưng cho muôn dân – sẽ ngạc nhiên trước chứng tá của Tin Mừng.

Anh chị em thân mến, sau mẻ cá lạ, Phêrô khoác áo, nhảy xuống nước bơi vào bờ. Cử chỉ vội vã ấy cho thấy khao khát gặp gỡ Thầy. Đó cũng là linh đạo Phục Sinh: đi xuyên qua đêm thất bại để đến bữa sáng hiệp thông. Mỗi Thánh Lễ là “bếp than hồng” nơi Đức Kitô trao ban Mình và Máu, bổ sức cho ta tiếp tục ra khơi. Xin đừng rời bàn tiệc ấy khi lòng còn hoài nghi, sợ hãi, tự mãn hay chán nản. Hãy để Ngài hỏi ta: “Con có mến Thầy hơn các anh em này không?” – và hãy can đảm đáp lại, dù chỉ với tình yêu còn non yếu, vì Ngài sẽ bổ túc mọi thiếu hụt.

Kết thúc, xin khắc ghi trong tim câu khôn ngoan của người xưa: “Có Chúa thì màng nhện cũng thành tường thành; không Chúa, tường thành cũng chỉ là màng nhện.” Xin cho mỗi chúng ta, trong Chúa Nhật III Phục Sinh này, biết kéo Chúa vào mọi ngõ ngách đời mình, để đêm lưới trống nhường chỗ cho bình minh tràn cá hồng ơn, và để từ đó, ta lên đường “chăn dắt chiên Người” giữa thế giới còn bao lồng chài tan nát. Amen.

Lm. Anmai, CSsR

 

 

TẤT CẢ HÃY RA KHƠI VÀ THẢ LƯỚI VÌ THẦY
Bờ hồ Tibêriát một buổi tinh mơ. Màn sương lững lờ buông thấp trên mặt nước phẳng lặng như gương, phản chiếu những mái thuyền mỏi mệt sau một đêm quăng chài vô vọng. Những nét mệt nhoài hiện rõ trên khuôn mặt Phêrô, Anrê, Giacôbê, Gioan… – những con người từng dạn dày gió biển Galilê. Họ từng chứng kiến hai phép lạ lưới cá đầy tràn và từng nghe chính Đức Giêsu, Thầy của họ, hứa gặp lại tại Galilê. Thế nhưng đêm nay những tấm lưới trở về khô khốc, trơ trọi, lòng người bỗng chùng xuống giữa hoang mang: Thầy đã phục sinh, nhưng phải làm gì trong một thế giới dường như chẳng đổi thay? Họ không biết rằng chính lúc thất bại ê chề nhất lại là giây phút Chúa sắp bước tới, mở ra một bình minh mới.

Tiếng gọi vang lên từ bờ xa: “Này các anh, có gì ăn không?” Âm thanh bình dị, thân thương, song đủ khiến con tim Gioan rung động. Tấm lưới nặng trĩu ngoài sức tưởng: một trăm năm mươi ba con – con số mà thánh Hiêrônimô giải thích là tổng số các loài cá được biết hồi đó, ngụ ý toàn thể gia đình nhân loại. Phêrô chẳng kịp ngỡ ngàng, chỉ còn biết khoác áo nhảy ào xuống nước bơi vào bờ. Một bếp than hồng, ít cá nướng, mấy tấm bánh – bữa sáng giản dị đã chờ sẵn; Đấng Phục Sinh không chỉ ban lệnh truyền sứ vụ, Người còn lo cả bữa ăn cho các môn đệ, như một người Mục Tử chăm sóc đoàn chiên đến từng nhu cầu nhỏ bé.

Hình ảnh mẻ cá lạ lùng gợi lên khuôn mặt Hội Thánh. Chiếc thuyền lướt trên “biển đời”, lưới tung xuống mọi phía để quy tụ toàn cõi nhân loại về làm con cái Thiên Chúa. Biển mênh mông, sóng gió dữ, và bóng tối dày đặc của đêm trường dễ làm người truyền giáo nản lòng. Thế nhưng chỉ cần một lời của Chúa, biển sâu hóa nguồn phúc lạ; chỉ cần vâng theo chỉ dẫn của Người, chiếc lưới – biểu tượng của Tin Mừng – sẽ kéo về “cá” thuộc đủ mọi ngôn ngữ, màu da, văn hóa. “Thầy biết chiên Thầy và chiên Thầy biết Thầy; Ta hiến mạng vì đoàn chiên” – câu tự xưng ấy đã được khắc ghi nơi Gioan, và vì thế ông nhận ra dáng hình Thầy ngay giữa sương sớm.

Công vụ Tông Đồ hôm nay kể tiếp câu chuyện mẻ cá ấy bằng nét vẽ khác nghiệt hơn nhiều: các thượng tế ra lệnh cấm không được rao giảng Danh Giêsu. Phêrô từng vùng vẫy trong đêm thất bại trên hồ nay lại đứng vững giữa Tòa Công Nghị, mạnh mẽ đáp: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm.” Niềm xác tín ấy không đến từ quyết tâm thuần túy hay tài hùng biện thiên phú, nhưng từ kinh nghiệm chói sáng của buổi bình minh Phục Sinh: Người đã sống lại thật, Người đang hiện diện, Người bảo đảm mẻ lưới của Hội Thánh không hề rách nát dẫu gió bão trùng trùng.

Trong dòng lịch sử hai ngàn năm, bao lần “lệnh cấm” ấy tái diễn dưới muôn hình thức: pháp luật hà khắc, ý thức hệ khép kín, não trạng thực dụng, vô thần hay chủ nghĩa duy vật phủ nhận quyền tối thượng của Thiên Chúa trên nhân phẩm con người. Cấm đoán đôi khi khéo léo núp bóng “tự do ngôn luận” song bóp nghẹt tiếng nói của lương tâm; đôi khi khoác lớp vỏ “khoa học tiến bộ” để loại bỏ đấng Tạo Hóa ra khỏi bức tranh vũ trụ. Bao nhà truyền giáo đã ngã xuống nơi rừng sâu nhiệt đới châu Á, bao linh mục bị đày ải trong sa mạc băng giá Siberia, bao giáo dân âm thầm đổ máu vì dám mang danh Kitô hữu. Nhưng như chiếc lưới vùng Tibêriát không đứt dù nặng trĩu “cá”, Hội Thánh vẫn đứng vững, vẫn đong đầy sự sống của Đấng Phục Sinh.

Trong đời sống đức tin thường ngày, ta bắt gặp không ít “đêm thất bại” tưởng chừng vô vọng như các môn đệ xưa. Một gia đình long đong vì bệnh tật triền miên; một bạn trẻ mất phương hướng giữa cơn lốc truyền thông; một ông bố loay hoay kiếm việc giữa khủng hoảng kinh tế; một chị mẹ đơn thân lao đao nuôi con nhỏ. Bao ước mơ yêu thương, bao nỗ lực vun đắp có lúc bỗng hóa dòng lưới rỗng, kéo mỏi tay mà chẳng được gì. Chính khi ấy, lời mời gọi “Hãy thả lưới bên phải thuyền” vang lên. Không phải đổi thuyền, không phải tìm một mặt hồ khác, mà là đổi hướng theo lệnh Chúa; cũng một mái chèo, cũng một tấm lưới, nhưng với niềm tín thác, mọi thứ trở nên mới mẻ.

Trước tiên, hãy để ánh mắt Gioan sống dậy trong ta – ánh mắt của tình yêu. Chỉ ai gắn bó với Thầy bằng trái tim mới nhận ra Thầy trong những dáng hình bình thường nhất: một bệnh nhân cần thăm viếng, một hàng xóm cô đơn, một đứa trẻ khuyết tật cần bồng bế. Sự hiện diện của Chúa vốn rất gần, nhưng chỉ trái tim “được yêu” mới nhận ra. Nếu Hội Thánh muốn quy tụ muôn dân, phải khởi đi từ ánh mắt ấy. Rao giảng Tin Mừng không cốt ở khẩu hiệu ồn ào, nhưng ở khả năng nhìn – nhìn thấy Đức Giêsu đang ẩn mình nơi bao phận người nhỏ bé.

Thứ đến, hãy để bếp than hồng của Chúa sửa ấm mặt đời. Phêrô run rẩy bước lại bên bếp lửa, vừa sưởi, vừa lắng nghe câu hỏi ba lần “Con có yêu Thầy không?”. Mỗi lần đáp “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”, ông được giao phó: “Hãy chăm sóc chiên Thầy.” Sợi dây nối liền tình yêu – phục vụ là tuyến đường duy nhất khiến mẻ lưới Tin Mừng khỏi rách nát. Sự phục hồi của đời sống Giáo Hội, của mọi ơn gọi linh mục – tu sĩ – giáo dân, luôn bắt đầu từ bếp than hồng ấy: ở đó Chúa tha thứ, chữa lành, tái sai đi.

Sau cùng, hãy để chiếc lưới thiêng liêng vươn xa hơn cả biên giới hữu hình. Con số 153 mời gọi chúng ta mở rộng cái nhìn và tấm lòng: Tin Mừng dành cho mọi dân tộc, kể cả những người ta vốn cho là “khó ưa”, vô đạo hay hoàn toàn xa lạ. Thế giới hôm nay không thiếu “biển cả” mới: không gian mạng, những đô thị ồn ã, các trung tâm thương mại… Ở đó, con người vẫn kiếm tìm Ý Nghĩa, khát khao Tình Yêu, gào thét vì cô đơn. Một lời chứng tá khiêm nhu trung thực ngay chốn văn phòng, một hành động liêm chính giữa chợ đời, một bài chia sẻ Tin Mừng mạng xã hội cũng có thể là “cú quăng lưới bên phải” mở đường cho ân sủng. Thầy vẫn đứng trên bờ, đợi ta cộng tác.

Thưa cộng đoàn, rao giảng Phúc Âm không phải đặc quyền của linh mục, tu sĩ, giáo lý viên, mà là căn tính của mọi người được rửa tội. Ngay khoảnh khắc nước đổ trên đầu, ta trở nên “tư tế – ngôn sứ – vương đế” trong Đức Kitô: tư tế để hiến dâng đời mình trong yêu mến, ngôn sứ để nói Lời Sự Thật, và vương đế để phục vụ bằng lòng khiêm hạ. Chu toàn sứ vụ ấy không hề dễ dàng: ngoài kia, một lệnh cấm im lặng vô hình của chủ nghĩa hưởng thụ, vô thần đang siết chặt. Nhiều khi ta cảm thấy mình đơn lẻ, lực cạn, trí mờ. Nhưng hãy ngước nhìn Đấng Phục Sinh: Người đã thắng thế gian. Hãy nhớ câu Thánh Vịnh từng ngân vang: “Nếu Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả chỉ là uổng công.” Bài học mẻ cá đêm Galilê chính là lời cam kết của Thiên Chúa: ở đâu con người vâng nghe và cộng tác, ở đó mẻ lưới sẽ đầy, nhà sẽ vững, ơn cứu độ sẽ chan hòa.

Trong phụng vụ Thánh Thể ít phút nữa, chúng ta sẽ thấy Người lại đứng trên “bờ” – tức bàn thờ – chờ trao tấm Bánh bởi trời và Thịt Máu Phục Sinh. Mỗi lần rước lễ, linh hồn ta trở nên chiếc thuyền nhỏ chở Đấng Sự Sống ra biển đời. Xin đừng giữ Thầy cho riêng mình; hãy để hơi thở, lời nói, thái độ, việc làm của ta trở thành nhịp đập trái tim Chúa giữa trần gian. Nơi công sở, lớp học, mái ấm, chợ búa, ta hãy thì thầm với anh em: “Tôi đã gặp Chúa!” Dẫu ai cản ngăn, dẫu lời chứng ấy bị chế giễu, ta vẫn tin chỉ cần một hạt giống rơi vào đất tốt, Chúa sẽ cho mọc lên cây Phúc Âm sum suê.

Đêm Galilê nào rồi cũng kết thúc nơi bình minh rực rỡ. Chiếc lưới rỗng nào rồi cũng hóa đầy ắp lạ lùng. Người truyền giáo nào, khi dám nghe và làm theo lời Thầy, sẽ nếm trải niềm vui khôn tả của những con cá “sám hối” quẫy mình trong lưới cứu độ. Ước gì mỗi gia đình Công giáo trở thành một “bờ hồ” ấm lửa mến, nơi người lạ dừng chân khám phá khuôn mặt Từ Nhân; ước chi từng hội đoàn, giáo xứ trở thành một “chiếc thuyền Gioan Phaolô”, “thuyền Phêrô” hiệp nhất, ra khơi bất chấp gió ngược; ước sao chính quê hương Việt Nam chan hòa ánh sáng Phục Sinh khắp núi rừng, phố chợ, ruộng đồng, để rồi đến ngày chung cuộc mọi dân tộc họp nhau hát khúc Tán Tụng Con Chiên.

Anh chị em thân mến, trước thềm tuần mới, Đấng Phục Sinh lại gọi: “Hãy ra khơi, đừng sợ!” Xin hãy đáp bằng cả trái tim, cả khối óc và đôi tay. Đừng chờ khi mình hoàn hảo mới loan báo Tin Mừng; chính hành trình loan báo sẽ biến đổi ta nên trọn lành. Đừng sợ bị cười chê, vì “ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, Thầy cũng sẽ tuyên xưng kẻ ấy trước mặt Cha”. Đừng tiếc đôi chút thời giờ, tài năng, vì “ai bỏ thuyền, bỏ lưới vì Thầy sẽ lãnh gấp trăm ở đời này và sự sống vĩnh cửu đời sau”.

Xin Đức Maria – Ngôi Sao Truyền Giáo, người đã mau mắn đem Tin Mừng đến nhà Êlisabét – dìu bước chúng ta. Xin thánh Phêrô dạy ta yêu mến Thầy bằng hành động cụ thể chứ không chỉ bằng lời suông. Xin Gioan giúp ta giữ trái tim trẻ trung, nhạy bén trước mọi dấu chỉ của Đấng Phục Sinh trong cuộc sống hằng ngày.

Và giờ đây, như các tông đồ xưa, chúng ta hãy đứng lên, thắp sáng niềm tin, cầm chắc mái chèo phó thác, rồi lao mình vào biển đời mênh mông. Có thể đêm nay vẫn trắng tay, nhưng cứ kiên trì, bình minh sẽ đến, lưới sẽ đầy, thuyền sẽ khoan khoái cập bến. Vì “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. AMEN.

Lm. Anmai, CSsR

 

 

SỐNG BẰNG SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA KITÔ PHỤC SINH

Anh chị em thân mến,
Nhịp điệu phụng vụ dẫn chúng ta đi sâu vào mùa Phục Sinh như một cuộc hành trình khám phá sự sống mới bừng lên từ mồ trống. Các bài đọc hôm nay soi sáng cho chúng ta một chân lý nền tảng: Đức Kitô Phục Sinh không chỉ là một kỷ niệm vang vọng hai ngàn năm trước, nhưng là một Đấng đang hiện diện, đang can thiệp và đang mời gọi chúng ta sống đức tin như một cuộc gặp gỡ hằng ngày, một sự hiệp thông sống động làm biến đổi toàn diện con người và cộng đoàn. Chính kinh nghiệm ấy đã lật ngược mọi tính toán nhân loại, làm bừng cháy ngọn lửa can trường trong các Tông đồ, mở ra một lối sống mới cho Hội Thánh sơ khai, và hôm nay cũng mở ra cho chúng ta con đường hi vọng giữa những giằng co cam go của đời thường.

Thực tế đời sống vẫn chất chứa vô vàn nghịch lý. Chúng ta nghe nói Thiên Chúa quan phòng, nhưng có lúc tưởng chừng Ngài vắng bóng hoàn toàn giữa bệnh tật, thất nghiệp, bạo lực, bất công. Ngay chính chúng ta, không ít lần kêu cầu mà không thấy cửa bừng mở, tin mà lòng thao thức chao đảo. Lời Kinh Thánh hôm nay không che giấu những hoang mang đó; trái lại, đưa chúng ta vào chính dòng xoáy thử thách để mặc khải quyền năng biến đổi của Chúa Phục Sinh. Chúng ta hãy lấy ánh sáng mầu nhiệm ấy soi vào ba chặng dừng của phụng vụ Lời Chúa, để rồi đón nhận sứ điệp “sống bằng sự hiện diện” của Đức Kitô cách cụ thể trong mọi mặt đời mình.

Chặng thứ nhất, sách Công Vụ cho thấy các Tông đồ đứng trước Thượng Hội Đồng, nơi mới mấy tuần trước họ từng hoảng loạn, chạy trốn, khóa kín cửa vì sợ hãi. Vậy mà hôm nay, Phêrô – người từng chối Thầy ba lần – lại hiên ngang tuyên xưng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm.” Lời nói ấy không phải khẩu hiệu trừu tượng; đó là kết tinh của một cuộc chạm trán sống động với Chúa Giêsu phục sinh. Gặp Đấng từng vác thập giá nay chiến thắng tử thần, các ông nhận ra rằng quyền lực đời này, dù hung bạo mấy, cũng chỉ là hư ảo so với uy quyền của Thiên Chúa. Sức mạnh của niềm tin ấy biến nhà tù thành bục giảng Tin Mừng, biến đòn vọt thành khúc khải hoàn, biến nhục nhã thành lý do hoan hỉ. Các ông đi vào não trạng mới: không còn diễn dịch cuộc đời theo thông số lợi – hại, thành – bại, nhưng đọc mọi sự bằng quy chiếu “Đức Kitô đang sống.” Biến cố Phục Sinh làm nứt toang bức tường sợ hãi, phóng các ngài vào sứ vụ với sự tự do thẳm sâu nhất: tự do của người đã biết Chúa là tất cả.

Chặng thứ hai, sách Khải Huyền kéo tầm nhìn chúng ta khỏi những tranh chấp hữu hạn để hướng lên bầu trời phụng vụ, nơi muôn thần thánh cất lời tung hô: “Chúc tụng Chiên Con đã bị sát tế, quyền năng, phú quý, khôn ngoan, uy lực, danh dự, vinh quang và chúc tụng đến muôn đời.” Từ góc nhìn trần thế, Chiên Con là thất bại: bị kết án, bị đóng đinh, bị chôn trong mộ. Nhưng từ góc nhìn thần linh, chính Chiên Con ấy được tôn vinh, trở thành trung tâm vũ trụ, là Đấng duy nhất xứng đáng mở niêm phong lịch sử. Trong dòng chảy khải hoàn đó, mọi vương quyền, bạo lực gian tà rồi sẽ sụp đổ; chỉ tình yêu tự hiến của Đức Giêsu mới bền vững muôn đời. Bài ca trên trời hoàn toàn không phải để ru ngủ địa cầu, nhưng để khích lệ Giáo Hội đang chiến đấu dưới thế – khích lệ chúng ta – hãy kết hợp lời ca phụng vụ với hiến lễ đời mình, dám sống và dám chết cho sự thật, vì biết chắc phần thưởng ở bên kia cái chết là chính Đấng Sống Lại.

Chặng thứ ba, Tin Mừng Gioan dẫn chúng ta về bờ hồ Tibêriát – khung cảnh thân thuộc của người ngư phủ Galilê. Một đêm mệt mỏi trắng tay, tiếng gió lồng lộng đánh thức ký ức về những lần kiệt quệ trong đời ta: loay hoay kiếm sống, chật vật nuôi gia đình, bế tắc giữa dịch bệnh hay khủng hoảng kinh tế… Chính vào thời khắc vô vọng ấy, Chúa Giêsu phục sinh xuất hiện như một “người lạ” đứng trên bờ, dịu dàng hỏi: “Này các con, không có gì ăn sao?” Câu hỏi không chỉ hỏi về cá, nhưng về nỗi trống rỗng sâu xa của trái tim con người khi vắng bóng Thiên Chúa. Ngài bảo: “Hãy thả lưới bên mạn phải thuyền.” Các môn đệ vâng lời, và một mẻ cá lạ lùng 153 con kéo lưới căng đầy. Điều kỳ diệu không phải con số, mà là lời Ngài đã biến cảnh thất bại thành kinh nghiệm gặp gỡ. Sáng sớm trên than hồng, Thầy đã chuẩn bị sẵn cá nướng và bánh – dấu hiệu quan phòng ân cần, nhắc chúng ta: Thiên Chúa không xuất hiện bằng ánh chớp uy nghi làm tê liệt tự do, nhưng âm thầm thắp lửa, lo cho bữa ăn sáng, gánh lấy những nhọc nhằn nhỏ bé nhất của đoàn con. Điều Ngài chờ mong nơi chúng ta là bước nhảy tin yêu: tin để thả lưới một lần nữa, tin để dám ném cuộc đời vào lời Ngài, tin để nhận ra “Chính Chúa đó!” như Gioan đã reo lên giữa làn sương bình minh.

Từ ba lời chứng ấy, phụng vụ hôm nay đặt trước mặt chúng ta một thách đố và một lộ trình. Thách đố là: chúng ta có dám tin rằng Đức Kitô thật sự đang sống và đang hiện diện giữa thế gian hôm nay hay không? Nếu chỉ xem Ngài như kỷ niệm, đạo chúng ta sẽ hoá lối cũ sáo mòn sinh hoạt, lễ hội ngoạn cảnh hay bó buộc luân lý; ngược lại, nếu tin Ngài đang sống, đức tin sẽ trở thành năng lực giải phóng, biến chúng ta thành những chứng nhân không thể im lặng trước bất công, sợ hãi, lầm lạc.

Còn lộ trình sống sự hiện diện ấy có thể được khắc hoạ bằng bốn nét:

Thứ nhất, nhạy cảm thiêng liêng. Gioan nhận ra Chúa vì con tim ông tinh tuyền yêu mến. Chúng ta cũng hãy trau dồi cái nhìn đức tin qua Lời Chúa, Thánh Thể, những giây phút thinh lặng nội tâm. Một tâm hồn trong sạch, khiêm nhu sẽ thấy Chúa đang đốt than, nướng bánh, đang tỏa ánh sáng trên chính bờ cát đời mình.

Thứ hai, can đảm vâng phục. Các Tông đồ vâng lời “người lạ” thả lưới, rồi vâng lời Chúa Thánh Thần rao giảng bất chấp roi vọt. Đức vâng phục Kitô giáo không phải nếp tuân thủ máy móc, nhưng là hành vi phó thác tín thác rằng, dù lệnh truyền của Chúa có phá vỡ mọi tính toán, chính Ngài chịu trách nhiệm về kết quả. Khi gia đình khuyên ta gian dối để mưu sinh, khi xã hội tán đồng vô cảm trước thai nhi, khi bè bạn rủ rê trác táng, lời “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là người ta” trở thành kim chỉ nam định hướng.

Thứ ba, hiệp thông bác ái. Giáo đoàn Giêrusalem đã coi của cải là chung, không ai túng thiếu. Gặp gỡ Đấng Sống Lại, chúng ta không thể giữ niềm vui cho riêng mình. Câu trả lời thuyết phục nhất cho một thế giới hoài nghi phải là dấu chỉ yêu thương cụ thể: một chút thời gian cho người bệnh, một bữa cơm sẻ chia với người vô gia cư, một lời bênh vực cho ai bị hàm oan. Bàn tay rộng mở là bằng chứng hùng hồn rằng Chúa đang hiện diện.

Thứ bốn, hy vọng bền bỉ. Khải Huyền vẽ lên viễn tượng khải hoàn để nâng đỡ bước chân hành hương. Khi chiến tranh khiến hàng triệu người phải di tản, khi động đất vùi dập cả thành phố, khi những uẩn khúc trong Giáo Hội làm ta sững sờ, ta vẫn được mời gọi hát khúc “Amen! Chúc tụng” vì biết rằng Chiên Con đã chiến thắng, sự chết không còn tiếng nói sau cùng.

Anh chị em thân mến,
Mỗi Thánh Lễ là một bờ hồ Tibêriát hôm nay: Chúa Giêsu phục sinh lại thắp lửa trên bàn thờ, lại bẻ bánh ban chính Mình Máu Ngài, lại hỏi mỗi chúng ta như xưa đã hỏi Phêrô: “Con có mến Thầy không?” Nếu ta đáp “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”, thì Thầy cũng sẽ trao cho ta đàn chiên của Ngài: đó là con cái, gia đình, cộng đoàn, xã hội. Tình yêu ấy không phải cảm xúc thoáng qua, nhưng là sức bật để ta dấn thân giữa đời, loan báo Tin Mừng không mệt mỏi, bảo vệ sự sống, xây nền công lý, thắp lửa hy vọng cho những ai tưởng chừng đời họ chỉ còn đêm trống lưới rách.

Hãy nhớ: Thuyền các Tông đồ chỉ đầy cá sau khi họ chịu để Chúa hướng dẫn. Đời ta chỉ đâm hoa kết trái khi để Lời Chúa dẫn dắt mọi chọn lựa, kể cả những chọn lựa dường như trái ngược quy luật thị trường. Khi chúng ta dám “thả lưới bên mạn phải” – dám hành động theo lương tâm soi dẫn bởi Thánh Thần – thì phép lạ quảng đại xảy đến: cá đầy đến nỗi lưới tưởng rách, niềm vui đầy tới mức nước mắt hoá thành hồng ân.

Xin Đức Kitô Phục Sinh đốt nóng tim chúng ta bằng lửa Thánh Thần, để giữa thế giới còn lắm đêm tối, cuộc đời ta rạng lên như một bếp than hồng tỏa hơi ấm Tin Mừng. Xin Ngài ban cho chúng ta đôi mắt trong sáng của Thánh Gioan để luôn nhận ra Thầy, ban cho chúng ta ý chí can trường của Thánh Phêrô để không sợ hãi khi tuyên xưng danh Đức Giêsu giữa công nghị trần gian, và ban cho chúng ta con tim quảng đại của cộng đoàn Giêrusalem để biến Giáo Hội tại Việt Nam, tại xứ đạo, tại gia đình mình thành dấu chỉ sống động về một Thiên Chúa vẫn đang quan phòng, đang chăm sóc từng bữa ăn sáng, từng giọt mồ hôi, từng ước mơ nhỏ nhoi nhất của con cái Ngài.

Ước gì, khi rời khỏi nhà thờ hôm nay, mỗi chúng ta có thể nói bằng tất cả xác tín: “Tôi biết Đấng tôi tin.” Và trong từng hơi thở, từng cái bắt tay, từng bát cơm sẻ chia, chúng ta làm vang dội lời ca của sách Khải Huyền: “Chúc tụng, danh dự, vinh quang và quyền năng thuộc về Đấng ngự trên ngai và thuộc về Chiên Con đến muôn muôn đời.” Amen.

Lm. Anmai, CSsR

 

 

SỐNG BẰNG SỰ HIỆN DIỆN CỦA CHÚA KITÔ PHỤC SINH

Cùng cộng đoàn phụng vụ rất thân mến! Hôm nay Hội Thánh cử hành Chúa Nhật III Phục Sinh năm C, dẫn đưa ta về bờ hồ Tibêriát để sống lại khoảnh khắc ngỡ ngàng của các môn đệ khi Thầy Giêsu Phục Sinh nhẹ nhàng bước vào đời thường của họ, nhóm bếp, nướng cá, dọn bữa và mở ra một chân trời sứ vụ mới. Lời Chúa vang lên giữa chúng ta không phải để kể chuyện xưa, nhưng để khơi dậy lòng khao khát Đấng đang sống, đang hiện diện và đang tha thiết mời gọi ta nhận ra, đến với và đi theo Người trong mọi khúc quanh đời mình.

Thánh Gioan thẳng thắn ghi lại sự thật trần trụi: “Suốt đêm, các ông không bắt được gì cả.” Đó không chỉ là thất bại nghề nghiệp của nhóm chài lưới từng lão luyện với sóng nước Galilê, nhưng còn là hình ảnh của bao lần ta lao nhọc giữa trần gian, gom góp kinh nghiệm, vốn liếng, mối quan hệ… mà rốt cuộc lòng vẫn rỗng không. Đêm tối của thất bại dễ khiến ta nản lòng, và chính lúc ấy Chúa Phục Sinh lặng lẽ đứng trên bờ, hỏi một câu tưởng như rất bình thường: “Này các anh, có gì ăn không?” Câu hỏi ấy chạm vào nỗi trống rỗng thẳm sâu và mở ra cơ hội gặp gỡ. Vấn đề không nằm ở chiếc lưới rách hay luồng cá hiếm, nhưng ở việc thuyền đời ta đã lỡ trôi xa Thầy; bãi vắng con tim ta thiếu vắng sự hiện diện của Chúa Kitô.

Chỉ có Gioan – “môn đệ được Chúa yêu” – lập tức nhận ra Người. Ông đã từng nép mình vào ngực Thầy trong bữa Tiệc Ly, từng chạy đến mồ trước Phêrô và “đã thấy và đã tin”. Đối với Gioan, yêu mến là con đường ngắn nhất để nhận diện Đấng Phục Sinh. Tình yêu bén nhạy hơn đôi mắt, thức tỉnh trước mọi dấu chỉ, kể cả dấu chỉ tầm thường như một mẻ cá trầm trĩu trong tờ mờ sáng. Bài học đầu tiên cho người môn đệ hôm nay là nuôi dưỡng một con tim đượm lửa mến: lửa mến đốt tan màn ngờ vực, soi thấu ý nghĩa những biến cố bình nhật, biến bếp than hồng thành nơi mạc khải. Ai yêu nhiều sẽ nhận ra Chúa mau lẹ và sâu xa; ai để ngọn lửa tình yêu nguội tắt sẽ lạc loài giữa chính căn nhà mình.

Gioan khẽ bảo Phêrô: “Chúa đó!” Không ồn ào, không đắc thắng, chỉ một tiếng gọi reo vui đủ làm bừng sáng cả con thuyền đang mỏi mệt. Lời chứng âm thầm ấy đánh thức trong Phêrô một niềm khao khát bấy lâu bị vùi lấp bởi mặc cảm chối Thầy. Ông vội khoác áo, nhảy xuống biển, bơi về phía Người. Thái độ vội vã của vị Tông Đồ trưởng dạy ta điều gì? Rằng kinh nghiệm thất bại, tội lỗi hay yếu đuối không bao giờ là kết thúc; chỉ cần nghe một tiếng gọi “Chúa đó!”, ta có quyền bứt phá khỏi mọi ràng buộc, trút bỏ nỗi tự ti để lao về phía Đấng đang chờ đợi. Nhiều khi ta ngại ngần vì sợ dơ, sợ xấu hổ trước ánh mắt Chúa; nhưng chính Phêrô, người từng khóc nức nở vì ba lần chối Thầy, lại là người đầu tiên đáp trả tiếng mời gợi của Tình Yêu. Kinh nghiệm của ông bảo đảm cho ta rằng: quá khứ vướng bận không thể ngăn cản một trái tim hoán cải chân thành.

Khi cả nhóm kéo thuyền vào bờ, Đức Giêsu đã chuẩn bị than hồng, cá nướng và bánh. Cử chỉ đơn sơ ấy họa lại phép lạ bánh hóa nhiều và gợi nhớ Thầy vẫn luôn là Đấng “đến để phục vụ”. Thế nhưng, Người vẫn muốn các môn đệ góp “ít cá mới bắt được”. Chúa không biến ta thành khán giả thụ động trước ơn huệ nhưng kéo ta vào quỹ đạo sáng tạo của Thánh Thần: ơn trên và nỗ lực của ta hòa quyện nên bữa tiệc Nước Trời. Nơi bếp lửa ven hồ, Chúa dạy ta bí quyết sống đức tin trong đời thường: hãy đặt tài năng, thành quả, cả giới hạn của mình vào tay Người, và hãy tin rằng phép lạ lấp đầy chiếc lưới rách vẫn xảy ra mỗi ngày.

Sau bữa ăn, Đức Giêsu bước vào “phút vấn tâm” với Phêrô: ba lần hỏi, ba lần đáp, gỡ gạc cho ba lần chối. Nhưng ngôn ngữ nguyên bản hé mở một chiều kích sâu hơn. Hai lần đầu, Chúa dùng động từ agapao – tình yêu tuyệt đối, hy sinh toàn hiến; Phêrô khiêm tốn đáp bằng phileo – tình huynh đệ, thân ái nhưng còn ngại hiến thân. Lần thứ ba, Chúa hạ xuống phileo, gặp gỡ Phêrô tại mức độ ông có thể. Thiên Chúa luôn hạ mình đến ngang tầm con người để nâng ta lên độ cao của Người. Phêrô buồn vì thấy giới hạn của chính mình, nhưng cũng chính lúc ấy, ông hiểu rằng ơn gọi mục tử phát sinh không từ sức lực hay lòng nhiệt thành của xác thịt, mà từ kinh nghiệm yếu đuối được tình yêu thứ tha. Chỉ người ý thức mình đã được thương xót mới đủ sức “chăn dắt chiên Con”.

“Con hãy theo Thầy!” – Âm vang ấy kết lại buổi rạng đông trên biển hồ và mở ra hành trình tử đạo cho Phêrô, hành trình phục vụ cho mỗi tín hữu. Theo Thầy, nghĩa là bước đi trong sự hiện diện sống động của Đấng Phục Sinh: để Người định hướng mọi chọn lựa, thanh luyện mọi tham vọng và biến đổi mọi thất bại thành cơ hội trưởng thành. Theo Thầy, còn là dấn thân xây dựng một Hội Thánh “có mùi chiên”, một Cộng Đoàn không sanh hận, không loại trừ, nhưng chia sẻ “bánh – cá” ơn phúc cho nhau, nhất là cho anh chị em đang trắng tay sau những đêm dài vật lộn với bệnh tật, thất nghiệp, chia ly.

Lời Chúa hôm nay đặt trước mắt ta ba cột mốc hành trình đức tin. Một là nhận ra Chúa trong từng khoảnh khắc đời thường: nơi tiếng trẻ khóc, giọt mồ hôi mẹ, dòng nước mắt của người bệnh, hay cả trong trang mạng xã hội xô bồ. Hai là đến với Chúa bằng lòng tin và lòng mến sống động: dám bỏ lại “lưới và thuyền” là những lệ thuộc cũ kỹ, để bơi vào tương quan thân tình với Đức Kitô, tìm thấy nơi Người câu trả lời cho cơn khủng hoảng hiện sinh. Ba là đi theo Chúa bằng đời sống phục vụ: dám trở nên tấm bánh bẻ ra, con cá nướng nóng hổi cho tha nhân; dám hy sinh thời gian, khả năng, của cải để xoa dịu nỗi khổ của con người thời đại.

Thưa cộng đoàn, có lẽ nhiều lần ta giống các môn đệ: mắt thì mở nhưng lòng còn mải đếm con cá hiếm hoi, nên không nhận ra Thầy đang đứng lặng lẽ nơi bến đời. Có lẽ ta còn ngại ngần vì thất bại hay vì mặc cảm tội lỗi, không dám khoác áo nhảy xuống biển lao về phía Chúa. Hoặc có khi ta hăng say phụng sự nhưng quên dâng “ít cá” của mình lên, quên để Chúa can thiệp và biến đổi. Hôm nay, giữa mùa Phục Sinh, Chúa Giêsu vẫn đang chờ ta trên bờ, tay cầm bánh nóng, miệng nở nụ cười cảm thông. Người hỏi: “Con có gì ăn không?” – Hãy thành thật kể với Người những đêm trắng tay, những lưới rách tâm hồn. Người sẽ chỉ chỗ thả lưới mới, và hơn thế, sẽ ban chính Thần Khí làm ngọn lửa tình yêu thiêu rụi mọi u ám, bất an.

Ước gì, sau khi đã no nê bánh Lời Chúa và Thánh Thể, mỗi người chúng ta ra về với trái tim reo vui: “Chúa đó!” Ước gì tiếng reo ấy không khép lại trong nhà thờ mà lan ra mái ấm gia đình, công sở, trường học, ruộng đồng, gieo vào lòng người hy vọng phục sinh. Ước gì ta dám sống như Phêrô – không níu kéo chiếc thuyền cũ, dám buông mình trên dòng nước ân sủng; dám can đảm yêu Chúa hơn mọi sự và yêu tha nhân như chính mình. Khi ấy, dù đường đời còn nhiều đêm tối, ta vẫn vững tin vì Đấng Phục Sinh đang hiện diện, đang nhóm bếp, đang đợi ta đến dự bữa sáng vĩnh hằng.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin đốt lên trong con ngọn lửa mến nồng nàn như Gioan, để con tinh tế nhận ra Chúa trong mọi biến cố. Xin ban cho con một quả tim quả cảm như Phêrô, dám vượt qua mặc cảm tội lỗi, nhảy xuống biển đời tìm đến Chúa. Xin cho con nên tấm bánh, con cá đơn sơ trên bếp hồng của lòng Chúa xót thương, để anh chị em con được no đầy niềm vui ơn cứu độ. Amen.

Lm. Anmai, CSsR

 

 

CHÚA KITÔ – MỤC TỬ TỐT LÀNH, NIỀM HY VỌNG CỦA ĐÀN CHIÊN HÔM NAY

Giữa không khí hân hoan của mùa Phục Sinh, phụng vụ Chúa Nhật III năm C đưa chúng ta về vùng hồ Tibêria, nơi các môn đệ, sau một đêm trắng tay “chẳng bắt được con cá nào”, gặp lại Thầy Chí Thánh đang chờ bên bếp than hồng. Cuộc gặp gỡ rạng đông ấy gợi lên cả một lịch sử ân tình: lịch sử của Thiên Chúa – Mục Tử – không ngừng đi tìm, chăm sóc và dẫn dắt con người, và lịch sử của những con người được mời gọi tiếp nối sứ mạng mục tử ấy. Hình ảnh người mục tử không xa lạ với dân Do Thái sống nghề chăn chiên; quen thuộc đến mức họ gọi Thiên Chúa là “Mục Tử của Israel”, Đấng trải toang trời đất như đồng cỏ mướt để nuôi dưỡng đoàn dân. Thánh vịnh 23 cất tiếng ca bất hủ: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi.” Các ngôn sứ, nhất là Êdêkien, vừa cảnh cáo những mục tử chỉ lo vỗ béo mình, vừa loan báo một Thiên Chúa sẽ “đích thân lùa đàn chiên”, băng bó kẻ yếu, tìm về con lạc. Cao điểm mặc khải được tỏ bày nơi Đức Giêsu: “Ta là Mục Tử Nhân Lành; Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta; Ta hiến mạng sống vì đoàn chiên” (Ga 10,11-15). Tin Mừng hôm nay còn tiến một bước: Đấng Phục Sinh không chỉ tỏ mình là Mục Tử, Người còn trao “gậy chăn chiên” cho Phêrô. Ba lần hỏi “Con có yêu mến Thầy không?” để Phêrô ba lần đáp “Có”, Đức Giêsu ba lần chuyển giao: “Hãy chăm sóc chiên con… hãy chăn dắt chiên mẹ… hãy chăm sóc đoàn chiên của Thầy.” Giây phút linh thiêng ấy đánh dấu nhịp nối giữa Chúa Kitô – Mục Tử Tối Cao – và mọi mục tử trong suốt dòng lịch sử Hội Thánh: từ Phêrô đến các tông đồ, từ các tông đồ đến giám mục, linh mục, rồi đến mỗi kitô hữu qua bí tích Rửa Tội.

Thiên Chúa khởi đi sứ vụ chăn dắt bằng tình yêu vô điều kiện. Khi hỏi Phêrô, Đức Giêsu không tra vấn kiến thức thần học, không thẩm định khả năng quản trị, Người chỉ hỏi về tình yêu. Bởi lẽ mục tử chỉ thật sự là mục tử khi con tim được nung nóng bởi tình yêu: yêu như Đức Kitô đã yêu, nghĩa là dám hiến mạng vì những kẻ mình phục vụ. Phêrô từng chối Thầy bên đống than, nay cũng bên than hồng, ba lần khẳng định lòng mến. Từ đổ vỡ đến phục hồi, từ thất bại đến ơn tha thứ, từ nỗi hổ thẹn đến niềm hy vọng, hành trình của Phêrô mở ra cho mọi mục tử con đường đặt nền tảng sứ vụ trên chính kinh nghiệm được yêu và được thứ tha. Không yêu, sứ mạng biến thành gánh nặng; có yêu, gánh nặng hóa thành niềm vui. Không yêu, quyền bính dễ thoái hoá thành thống trị; có yêu, quyền bính trở nên phục vụ.

Yêu rồi phải biết. “Ta biết chiên Ta”, nghĩa là hiệp thông sâu xa. Mục tử không thể chỉ ngồi sau bàn giấy ra huấn lệnh; cần “ngửi mùi chiên”, bước vào hoàn cảnh cụ thể của họ, chạm đến vết thương thầm kín của thời đại. Nếu đàn chiên hôm nay bao gồm người trẻ nghiện màn hình, những đôi vợ chồng chao đảo, người nghèo bị gạt bên lề, di dân tha hương, nạn nhân chiến tranh, nạn nhân lạm dụng, những thai nhi chưa kịp cất tiếng khóc, cả trái đất đang bị bạo hành, thì người mục tử phải thấy, phải chạm, phải khóc, phải hành động vì họ. Biết chiên còn là nhận ra ân sủng tiềm ẩn trong từng người. Một linh mục trẻ chia sẻ: “Ngày chịu chức tôi tưởng mình đem Tin Mừng cho giáo dân; càng sống tôi càng thấy chính họ rao giảng Tin Mừng cho tôi.” Cái biết ấy khiến mục tử khiêm tốn, tránh rơi vào lối “người làm thuê” chỉ tìm thành tích, và giúp mục tử mở lối cho đoàn chiên sống ơn gọi riêng của họ.

Biết rồi phải dẫn. Đức Giêsu không bảo Phêrô “khống chế” nhưng “chăn dắt”: đi trước để mở đường, đi giữa để khích lệ, đi sau để đỡ nâng kẻ yếu. Trong Hội Thánh hôm nay, tinh thần ấy thấm nhuần tiến trình hiệp hành: mọi thành phần – giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân – cùng lắng nghe, cùng phân định, cùng bước. Dẫn dắt luôn đồng nghĩa với hy sinh: hy sinh thời gian, sở thích, ý riêng; dấn sâu vào “biển đời”, sẵn sàng “ra chỗ nước sâu” như mẻ lưới hôm nọ. Mẻ cá lạ lùng báo trước hoa trái phong phú của đức vâng phục. Động lực cho hành trình ấy chính là Thánh Thể. Tin Mừng kể “trên bếp than có sẵn cá và bánh”; cử chỉ bẻ bánh bên bờ hồ tiên trưng Bàn Tiệc Thánh Thể, nơi Đức Kitô tiếp tục nuôi sống mục tử và chiên. Không Thánh Thể, mục tử cạn nguồn; không cầu nguyện, đoàn chiên tản mác.

Từ Tin Mừng của buổi sáng Phục Sinh, ánh nhìn trải ra thực tại. Hội Thánh đối diện nhiều thách đố: khủng hoảng uy tín do một số mục tử phản chứng; cơn khát linh mục tại những vùng thưa vắng; bước chuyển văn hóa sang không gian mạng; nỗi kêu cứu của “ngôi nhà chung” bị tàn phá; sự rạn nứt gia đình, bạo lực, nghiện ngập, buôn người, chiến tranh, bất công. Tuy vậy, lời hứa của Mục Tử Nhân Lành còn đó: “Không ai cướp được chiên khỏi tay Ta.” Chính trong đêm thất vọng, Đức Giêsu xuất hiện bên bờ hồ; chính giữa biển đời cuồng sóng, Người đứng giữa thuyền. Mỗi mục tử và mỗi kitô hữu được kêu gọi trở thành dấu chỉ hy vọng: bằng lối sống trong sạch, giản dị; bằng việc lắng nghe không xét đoán; bằng sáng kiến chăm lo người yếu thế; bằng dấn thân cho công lý và bảo vệ môi sinh; bằng hiện diện tích cực trên mạng xã hội để gieo sự thật và lòng nhân. Mọi “có” dù bé nhỏ – bát cơm sẻ chia, nụ cười trao vội, lời khuyên tế nhị, giờ chầu thinh lặng – đều góp phần gom đàn chiên tản mác.

Từ giám mục, linh mục đến cha mẹ, từ tu sĩ đến bạn trẻ, ai cũng đang cầm trên tay một phần “gậy mục tử”. Người cha, người mẹ chăn dắt khi kiên trì trò chuyện với con; đôi bạn trẻ chăn dắt nhau khi trung thành, tha thứ; giáo lý viên chăn dắt bằng lời giảng sinh động; bác sĩ chăn dắt khi bảo vệ sự sống từ trong dạ mẹ; nông dân, công nhân, viên chức chăn dắt khi làm việc lương thiện; toàn thể cộng đoàn chăn dắt khi mở cửa đón người nghèo, di dân, người khác tín ngưỡng. Cả thế giới đang chờ những mục tử dám bước ra khỏi vòng an toàn, cộng hưởng tiếng kêu của thụ tạo, xây dựng “một đoàn chiên và một Chủ Chiên”.

Khi thánh lễ hôm nay cất lên, Đấng Phục Sinh vẫn hỏi từng tâm hồn: “Con có yêu mến Thầy không?” Xin cho câu đáp “Có” của Phêrô vọng lên trên môi miệng chúng ta, không phải bằng lời hứa suông mà bằng cuộc đời được Thánh Thể biến đổi. Xin ban ơn can đảm cho Đức Thánh Cha, các giám mục, linh mục – những mục tử tiền tuyến – để các ngài kiên trung trong chân lý, giàu lòng thương xót, minh bạch trong khiêm hạ. Xin đánh thức khát vọng hiến dâng nơi người trẻ, để ruộng lúa Giáo Hội không thiếu thợ gặt. Xin chữa lành những vết thương do tội lỗi nhân loại gây nên, để Hội Thánh, trong khổ đau thanh luyện, tỏa rạng vẻ đẹp của Hiền Thê Đức Kitô. Xin cho mọi kitô hữu trở nên mục tử cho nhau: vợ chồng nâng đỡ, cha mẹ hướng dẫn con, giới trẻ chăm sóc người già, cộng đoàn bảo vệ sự sống và môi sinh. Và nhất là, xin cho chúng con, dù yếu đuối, vẫn trở thành lời chứng sống động rằng giữa sa mạc vô cảm của thời đại, Thiên Chúa vẫn là Mục Tử Tốt Lành, vẫn nhóm lửa chờ đợi, vẫn bẻ bánh trao ban, vẫn nhẹ nhàng hỏi: “Con có yêu Thầy không?”, để ngày sau, khi lịch sử khép lại, nhân loại chỉ còn nghe một tiếng gọi dịu êm: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy vào hưởng Nước Trời…”, nơi ấy sẽ không còn nước mắt, không còn lạc lõng, nhưng chỉ còn một đoàn chiên và một Chủ Chiên yêu thương muôn đời. Amen.

Lm. Anmai, CSsR

 

 

CÓ CHÚA, CON THUYỀN CUỘC ĐỜI VƯỢT SÓNG

Suốt đêm hôm ấy, những cánh tay chai sạn của Phêrô và các bạn ông đã miệt mài kéo lưới. Tiếng mái chèo khua vào mặt nước Galilê vang lên đơn điệu, hòa vào màn sương còn đọng hơi đêm lạnh. Vậy mà rạng đông vừa hửng, tấm lưới vẫn nhẹ tênh, trống không. Câu Tin Mừng thật đơn sơ: “Suốt đêm hôm ấy, các ông chẳng bắt được một con cá nào” (Ga 21,3). Nhưng phía sau sự kiện ấy là cả một biển trời tâm trạng – nỗi trống rỗng của những người vừa trải qua biến cố Thập Giá, vừa chứng kiến Thầy mình phục sinh, mà vẫn như lạc lõng, chưa biết tiếp tục đời tông đồ thế nào.

Cảm giác ấy, thưa cộng đoàn, chẳng xa lạ gì với chúng ta. Đã bao lần ta dốc hết sức cho công việc, gia đình, lý tưởng; đã bao đêm thức trắng vì bài vở, vì dự án, vì những kế hoạch cháy bỏng… rồi bình minh đến mà thành quả hầu như chẳng có gì, chỉ còn đôi tay mỏi và trái tim hụt hẫng. Câu chuyện đêm lưới trống của Phêrô vẫn tái diễn nơi biển đời từng người, để nhắc chúng ta rằng: không có Chúa, thành công chỉ là ảo ảnh; với Chúa, thất bại biến thành khởi điểm nhiệm mầu.

Thánh Vịnh 127 từ ngàn xưa đã ghi khắc một chân lý không phai: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả chỉ là uổng công; thành trì Chúa chẳng giữ trông, hùng binh kiện tướng cũng không ra gì.” Kinh nghiệm muôn đời ấy, Chúa Giêsu xác nhận khi nói với các môn đệ: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Không phải Thiên Chúa phủ nhận khả năng chúng ta; trái lại, Ngài trao ban trí tuệ, nghị lực, tài năng cho mỗi người. Nhưng Ngài cũng cho thấy sự bất toàn của thụ tạo khi tách mình khỏi nguồn mạch sự sống. Tự tin, nghị lực, ý chí – tất cả rất đáng quý – song vẫn chỉ là “một phần góp nhỏ bé”, như lời tác giả đã gợi, vì thành công sau cùng tùy nơi Đấng cầm quyền sinh tử và dẫn dắt lịch sử.

Lịch sử cứu độ tràn ngập minh chứng. Tháp Babel – biểu tượng kiêu căng của loài người muốn vươn tới trời cao – đã sụp đổ trong tiếng ồn ngôn ngữ bất đồng. Đội quân Ai Cập với xa mã hùng mạnh bị vùi dưới lòng Biển Đỏ khi vươn tay bắt dân Chúa. Holopherne kiêu hãnh ngã gục trước một phụ nữ Giuđitha mảnh mai nhưng đầy lòng trông cậy. Môsê già nua chỉ cần giang tay cầu nguyện là giúp Israel chiến thắng, nhưng hễ buông tay thì dân lập tức thất thế. Những trang Cựu Ước ấy không chỉ kể chuyện xa xưa; chúng đang phản chiếu quy luật bất biến: uy quyền của con người – dù chính trị, kinh tế, kỹ thuật – chỉ bền khi hòa vào quyền năng Thiên Chúa; tách khỏi Ngài, nó mong manh hơn cả tơ nhện.

Tin Mừng Phục Sinh hôm nay đưa chúng ta trở lại bờ hồ Tibêria sau đêm thất bại. Khi bình minh bàng bạc soi mặt nước, một Người lạ đứng trên bãi cát, khẽ hỏi: “Các con có gì ăn không?” Câu hỏi tưởng như bình thường ấy đánh thức thực tại trống rỗng. Phêrô thú thật: “Thưa, không.” Từ chỗ nhìn nhận thất bại, họ để mình được hướng dẫn: “Hãy thả lưới bên phải mạn thuyền.” Và chỉ cần một động tác vâng phục, lưới căng đầy 153 con cá lớn, đến nỗi suýt rách. Họ nhận ra: “Chính Ngài đó!” – Đấng Phục Sinh đang hiện diện và biến lao nhọc vô ích thành mẻ cá lạ lùng.

Sự thay đổi ngoạn mục ấy diễn ra ngay lúc các môn đệ ngoan ngoãn làm điều tưởng chừng vô lý: di chuyển lưới chỉ vài thước từ trái sang phải. Thiên Chúa không đòi chúng ta tung lưới ở đại dương xa lạ; Ngài chỉ xin ta bước nhỏ của lòng tin – chuyển hướng nhìn, đổi cách làm, để ý đến tiếng nói của Lời, can đảm sửa một thói quen xưa cũ. Thành công bắt đầu từ thao tác bé nhỏ nhưng khởi đi bằng vâng phục.

Nhưng mẻ cá lạ đâu chỉ nhắm đến thành quả vật chất. Cử chỉ Chúa dựng bếp than, nướng cá, bẻ bánh và trao cho các ông gợi nhớ Bữa Tiệc Ly – nguồn mạch Thánh Thể. Đức Giêsu không chỉ trả lại cho Phêrô nghề nghiệp; Ngài tái lập ơn gọi tông đồ: “Hãy chăn dắt chiên Thầy.” Sau linh thao thất bại–thành công, sau bữa sáng phục sinh, Ngài khép lại bằng lời mời bước theo: “Hãy theo Thầy.” Điều đó cho thấy: thành công Kitô hữu không dừng ở cá đầy thuyền, thi đậu, dự án thắng lợi, gia đình no ấm… Tất cả những điều ấy chỉ có ý nghĩa trọn vẹn khi dẫn ta trở lại sứ mạng yêu thương phục vụ. Một “mẻ cá lạ” đích thực là ơn trợ lực để ta đứng dậy, nuôi sống, xây dựng cộng đoàn, loan báo Tin Mừng.

Chiêm ngắm câu chuyện Ga 21, ta học được ba bí quyết sống còn.

Thứ nhất, dám đối diện sự trống rỗng. Phêrô không ngụy biện, không đổ lỗi. Ông khiêm tốn thú thực: “Chúng con không có gì.” Thú nhận giới hạn là cửa ngõ đón nhận ơn Chúa. Trong đời sống hôn nhân, nghề nghiệp, mục vụ, bao lần ta che giấu thất bại, sợ người khác biết, sợ mình xấu hổ. Nhưng chính lúc ngửa tay nhìn nhận khoảng trống, ta mới để bàn tay quyền năng chen vào.

Thứ hai, can đảm thay đổi theo lời Chúa. Thả lưới bên phải đòi các ông phải di chuyển trọng tâm, gỡ bỏ thói quen lâu năm. Nhiều khi ta thất bại không phải vì thiếu cố gắng, mà vì cứng nhắc. Chúa vẫn âm thầm nhắc: “Con hãy thử cách khác. Tha thứ thêm lần nữa. Cầu nguyện sớm hơn. Ngưng phụ thuộc điện thoại. Dành thời gian cho con cái. Học lại Giáo Lý…” Ai biết ngoan ngoãn chỉnh hướng, sẽ thấy “mẻ cá” của bình an và hoa trái thiêng liêng.

Thứ ba, quy chiếu mọi thành công về tình yêu mục tử. Đức Giêsu ba lần hỏi Phêrô: “Con có yêu Thầy không?” trước khi trao nhiệm vụ. Người vừa khôi phục sự gắn bó cá nhân, vừa gắn trách nhiệm phục vụ. Đời Kitô hữu chỉ trọn vẹn khi thành công đổ vào phục vụ: khoa học vì con người, kinh tế vì công ích, trí tuệ vì Tin Mừng, chức quyền vì người bé mọn. Nếu một ngày ta quên mục tiêu ấy, chiếc thuyền sẽ lại trống lưới, và biển đời thành đêm vô nghĩa.

Từ kho báu Lời Chúa, ta trở về đời sống thực tế. Học sinh, sinh viên đang mùa thi – cứ học chăm, lập kế hoạch, tự tin vào khả năng, nhưng hơn hết là gắn kết với Chúa bằng cầu nguyện, thánh lễ, lương tâm ngay thẳng. Nhà nông cần lập lịch gieo trồng, áp dụng khoa học, nhưng cũng nhớ xin Chúa ban mưa thuận gió hòa. Người kinh doanh tính toán khởi nghiệp, cần sáng tạo, kiên trì, song đừng quên nền tảng đạo đức và cầu khẩn ơn soi sáng để không lạc lối tham lam. Gia đình trẻ hãy dành thời giờ cho nhau, cầu nguyện chung, mời Chúa vào bàn ăn, vào những cuộc trò chuyện, để tình yêu vợ chồng không cạn kiệt như đêm trắng vô ích. Các linh mục, tu sĩ, giáo lý viên, tông đồ giáo dân – trước khi lao vào chương trình mục vụ, hãy lưu lại bãi bờ với Đấng Phục Sinh, lắng nghe Ngài chỉ dẫn “bên phải thuyền” của thời đại hôm nay: những phương thế mới, ngôn ngữ mới, nhưng vẫn một tâm hồn yêu mến và khiêm nhu.

Có Chúa đi cùng, mọi khổ nhọc biến thành cơ hội. Tất cả thất bại vì yếu đuối, vì tội lỗi, thậm chí vì người khác gây nên, đều có thể hóa nên mẻ cá dồi dào nếu ta biết để Lời Người vang lên trong đêm tối. Đức tin không miễn chúng ta khỏi giông bão, nhưng biến thuyền nhỏ thành chiến hạm nhờ quyền năng Thánh Thần. Tiến sĩ Hội Thánh Têrêsa thành Lisieux từng nói: “Tin cậy là không cậy gì nơi mình, nhưng phó mình cho quyền năng của Chúa.”

Vì thế, giữa thế giới chạy theo thành công tức thời, chúng ta được mời gọi làm chứng cho một thành công khác: thành công của lòng tin, của tình yêu cứu độ. Khi cha mẹ kiên trì đối thoại với đứa con nghiện trò chơi điện tử, khi người vợ vẫn nhẫn nại cầu nguyện cho người chồng sa ngã, khi doanh nhân dám khước từ món lời bất chính, khi sinh viên đứng thẳng trước cám dỗ gian lận… bấy giờ, lưới đức tin đang được thả đúng mạn thuyền, và 153 “con cá lớn” – tượng trưng cho muôn dân – sẽ ngạc nhiên trước chứng tá của Tin Mừng.

Anh chị em thân mến, sau mẻ cá lạ, Phêrô khoác áo, nhảy xuống nước bơi vào bờ. Cử chỉ vội vã ấy cho thấy khao khát gặp gỡ Thầy. Đó cũng là linh đạo Phục Sinh: đi xuyên qua đêm thất bại để đến bữa sáng hiệp thông. Mỗi Thánh Lễ là “bếp than hồng” nơi Đức Kitô trao ban Mình và Máu, bổ sức cho ta tiếp tục ra khơi. Xin đừng rời bàn tiệc ấy khi lòng còn hoài nghi, sợ hãi, tự mãn hay chán nản. Hãy để Ngài hỏi ta: “Con có mến Thầy hơn các anh em này không?” – và hãy can đảm đáp lại, dù chỉ với tình yêu còn non yếu, vì Ngài sẽ bổ túc mọi thiếu hụt.

Kết thúc, xin khắc ghi trong tim câu khôn ngoan của người xưa: “Có Chúa thì màng nhện cũng thành tường thành; không Chúa, tường thành cũng chỉ là màng nhện.” Xin cho mỗi chúng ta, trong Chúa Nhật III Phục Sinh này, biết kéo Chúa vào mọi ngõ ngách đời mình, để đêm lưới trống nhường chỗ cho bình minh tràn cá hồng ơn, và để từ đó, ta lên đường “chăn dắt chiên Người” giữa thế giới còn bao lồng chài tan nát. Amen.

Lm. Anmai, CSsR

 

 

CON THUYỀN HỘI THÁNH GIỮA KHƠI XA – LỜI MỜI GỌI VƯỢT BIỂN ĐỨC TIN TRONG NIỀM HY VỌNG PHỤC SINH

Anh chị em thân mến, bài Tin Mừng Ga 21 trong Chúa Nhật III Phục Sinh năm C mở ra một khung cảnh quen thuộc mà vẫn rúng động trái tim: sáu môn đệ do Phêrô lão luyện cầm lái, thức trắng cả đêm, vung hết sức mà vẫn trắng tay. Kinh nghiệm biển hồ dày dặn, lưới dẻo dai, thuyền vững chãi, thế nhưng tất cả khéo léo loài người đều vô ích nếu Thiên Chúa chưa lên tiếng. Bình minh đến, nước lấp lánh mà lưới vẫn trống. Rồi một tiếng gọi đơn sơ vang lên từ bờ: “Hãy thả lưới xuống bên phải mạn thuyền.” Không ai đánh cá ban ngày, càng không có ai đổi mạn lưới vào phút cuối; thế nhưng các ông vâng lời. Kết quả: lưới căng phồng, đếm được đúng một trăm năm mươi ba con cá lớn, tượng trưng toàn nhân loại. Thiên Chúa toàn năng không bị quy luật tự nhiên chi phối, nhưng ân phúc của Người lại gắn chặt vào sự vâng phục đơn sơ. Giữa bao nhọc nhằn lao nhọc, giữa lúc tưởng như thất bại, quyền năng Phục Sinh bừng sáng chỉ khi con người chịu cúi đầu trước Thánh Ý. Câu chuyện bên bờ hồ hé lộ khuôn mặt Hội Thánh qua mọi thời: có lúc mệt lả, cạn sức, lênh đênh giữa muôn dặm phong ba, nhưng chỉ cần quay mạn thuyền về phía Lời Chúa, phép lạ truyền giáo sẽ xảy ra ngoài mọi tính toán.

Lịch sử hiện đại không thiếu những trang chứng thực điều ấy. Khi Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI tuyên bố từ nhiệm, truyền thông thế giới náo nhiệt liệt kê mười vị hồng y “sáng giá”, thậm chí khơi lại lời tiên tri Malachi để dọa vẽ tương lai u tối. Ai cũng nghĩ ghế Phêrô sẽ thuộc về một khuôn mặt quyền lực của Bắc bán cầu. Nhưng Hội Thánh không được điều khiển bởi các bảng thống kê, cũng không xếp hàng theo kịch bản phỏng đoán; Đức Chúa Thánh Thần bất ngờ viết tiếp trang Tin Mừng bằng cách chọn Đức Hồng Y Jorge Mario Bergoglio đến từ miền Nam bán cầu, vị giám mục từng đi xe buýt, sống giữa khu ổ chuột Buenos Aires. Ngài lấy tước hiệu Phanxicô, trở thành vị Giáo Hoàng thứ 266, phát đi tín hiệu mời gọi toàn cầu hoán cải mục vụ, bước ra vùng ngoại biên, trở về đơn sơ Tin Mừng. Một lần nữa, con thuyền vượt qua mọi tít báo đồn đoán để lao vào luồng gió của Thánh Thần, chứng minh quyền điều khiển tối hậu không thuộc về lá phiếu con người, mà thuộc về Đấng Phục Sinh – Vị Thuyền Trưởng vô hình.

Hình ảnh con thuyền trắng đêm vất vả khiến ta nhớ đến hơn hai mươi thế kỷ lịch sử Hội Thánh. Biển đời có những ngọn sóng văn hóa duy vật, chủ nghĩa thế tục, cơn bão vạch trần sai lầm của chính con cái Giáo Hội; có cả những hố xoáy khủng hoảng lạm dụng, chia rẽ nội bộ, chiến tranh ý thức hệ. Thế nhưng Tảng Đá Phêrô vẫn đứng vững, bởi lời hứa bất hủ: “Trên tảng đá này Thầy xây Hội Thánh của Thầy và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.” Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu đã báo trước phương thế bảo toàn: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em… Thầy sẽ sai Đấng Bảo Trợ đến.” Chính Thánh Thần mới là sức căng của cánh buồm, dòng chảy dưới lườn thuyền, ngọn lửa trên boong, và la bàn chỉ hướng giữa mịt mùng. Dù bị vùi dập bao phen, Con Thuyền Tình Yêu vẫn bền vững vì có Đấng Bảo Trợ ở giữa và “Chúa ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”

Sau mẻ cá lạ, Đức Giêsu không nhắc một lời về ba lần chối Thầy của Phêrô. Người nhóm bếp than hồng, nướng bánh và cá, chăm chút cho bao dạ dày đói rét. Người hỏi ba lần một câu duy nhất: “Con có yêu mến Thầy không?” Ba lần Phêrô đáp “Có!” và ba lần được ủy thác: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy.” Sứ mạng lãnh đạo Hội Thánh được xây trên tình yêu, không phải trên tham vọng, càng không phải trên quyền lực chính trị. Quyền bính kitô giáo khởi đi từ khiêm hạ rửa chân, từ bước cúi mình nhóm lửa, bẻ bánh, mời gọi: “Anh em đến mà ăn.” Mọi cơ cấu, tổ chức, giáo luật, học vị… chỉ là khí cụ cho sứ mạng tình yêu. Từ phút ấy, Phêrô hiểu rằng ông phải lái thuyền Giáo Hội bằng đôi tay có lằn dây chài lao động, nhưng con tim rực cháy tình yêu; ông sẽ phải thắt lưng đi đến nơi không muốn, và sau cùng đóng đinh ngược để nên giống Thầy mình trọn vẹn. Máu tử đạo của ông khẳng định rằng Hội Thánh sở hữu một thứ quyền lực duy nhất: quyền lực của kẻ dám yêu đến cùng.

Hơn hai ngàn năm, di sản ấy tiếp tục chuyển giao. Trong thực tế, Hội Thánh vẫn mang gương mặt phức tạp: vừa thần linh vừa nhân loại, vừa thánh thiện vừa mỏng dòn, “thánh thiêng nhưng luôn cần thanh luyện” như Công đồng Vatican II khẳng định. Khi chứng kiến những yếu đuối của giáo sĩ, nhiều người chao đảo; nhưng chính lúc ấy, người tín hữu được mời gọi nhớ lại lưới rách của các tông đồ gốc: kẻ nóng nảy, kẻ tham danh, kẻ nghi ngờ, kẻ phản bội. Phêrô khóc, Máccô bỏ trốn, Tôma cứng tin, Giacôbê và Gioan đòi chỗ nhất. Họ là nền tảng Hội Thánh vì chứng từ về một Đấng đã yêu thương họ đến cùng và biến đổi sự yếu đuối thành khí cụ cứu độ. Cho nên, vì “liên đới với những bất toàn” (Đường Hy Vọng), ta không buông xuôi, không kết án, nhưng dấn thân tẩy luyện: cải tổ cơ cấu, chữa lành vết thương, đào sâu đời sống thiêng liêng, để chiếc thuyền càng lộ sáng vẻ đẹp Tình Yêu.

Mẻ cá một trăm năm mươi ba con hé lộ viễn tượng đại đồng: Hội Thánh không khép cửa cho nhóm ưu tuyển, nhưng vươn lưới tới mọi dân tộc, mọi văn hóa. Mấy thập niên qua, Đức Giáo Hoàng Phanxicô liên lỉ kêu gọi “đi ra”, “mở cửa”, “đến vùng ngoại biên”. Đó không phải khẩu hiệu thời thượng, nhưng vang vọng lệnh truyền của Thầy: “Hãy chèo ra chỗ nước sâu.” Vùng ngoại biên có thể là những con hẻm nghèo, cũng có thể là thế giới số, nơi hàng triệu người trẻ lang thang. Vùng ngoại biên là trại tị nạn, bệnh viện phong, phòng phá thai, quặng mỏ ô nhiễm, viên gạch chênh vênh trên giàn giáo công trường; là trái đất bị cào xới, là cánh rừng Amazon bị đốt trụi; là lòng người bị cuốn vào chủ nghĩa tiêu dùng, thờ ơ. Thánh Thần thúc bách Hội Thánh “thả lưới bên phải” ngay cả khi giờ đánh cá đã trôi qua theo lôgíc thế gian: kiên trì dạy giáo lý cho vài em thiếu nhi trong xóm, lặng lẽ đem Mình Thánh cho cụ già liệt giường, cần mẫn hành nghề với công tâm để công bố Phúc Âm bằng chính lương thiện hằng ngày, dũng cảm bênh vực sự sống thai nhi, cất lên tiếng nói chống áp bức nhân phẩm. Mẻ lưới phong phú không tự đến từ tài khéo, mà đến khi ta dám mạo hiểm bằng vâng lời.

Anh chị em thân mến, mỗi gia đình kitô hữu cũng là một “con thuyền nhỏ” trong đại dương thế giới. Người cha, người mẹ cặm cụi đến tối mà tiền nong vẫn thiếu, con cái “trắng tay” đạo đức vì cám dỗ thời đại số, đôi bạn trẻ hoang mang trước tin giả, người lao động nhập cư mòn mỏi tìm việc… Những đêm trắng tay ấy mời gọi ta nhìn lên Đấng đứng lặng thinh trên bờ. Nếu ta biết dừng tay, lắng nghe và vâng phục, Thiên Chúa sẽ vẫn làm nên phép lạ giữa chợ đời. Chính lúc ta thay đổi hướng ném lưới – thay đổi thái độ, bỏ thói ích kỷ, dành giờ cầu nguyện chung, dám xin lỗi và tha thứ – thì mẻ cá tha thứ, bình an, đức tin sẽ căng lưới đời ta.

Phụng vụ hôm nay không chỉ kể chuyện cũ; phụng vụ là hiện tại sống động. Ngay trong thánh lễ này, Đức Giêsu Phục Sinh lại nhóm bếp than Thánh Thể, lại bẻ bánh và trao cá lời Chúa, lại hỏi từng người: “Con có yêu Thầy không?” Câu hỏi ấy vang qua ba ngàn chữ viết, xuyên thấu ba mươi phút homily, để chạm tận đáy lòng chúng ta. Nếu ta đáp “Có!” bằng cả xác hồn, Người sẽ lại bảo: “Hãy chăn dắt.” Hãy chăn dắt người bạn đời đang kiệt sức, đứa con gãy gánh học hành, người hàng xóm bệnh tật, đồng nghiệp thất vọng, hành tinh đang kêu cứu. Hãy chăn dắt bằng bát cơm sẻ chia, lời khuyên dịu dàng, lá phiếu bảo vệ sự thật, giờ chầu cầu nguyện, công việc tận tụy, ánh mắt nhân hậu. Từng hành động ấy là một chiếc mái chèo, góp sức đẩy Hội Thánh lướt sóng loan báo Tin Mừng.

Cuối cùng, ta nhớ lời Đức Hồng Y PX. Nguyễn Văn Thuận: “Con tin Hội Thánh vì Chúa Giêsu đã lập Hội Thánh và chỉ lập Hội Thánh ấy thôi.” Niềm tin ấy không mù quáng nhưng bén rễ trong kinh nghiệm Phêrô: kinh nghiệm cảm nếm tha thứ, kinh nghiệm quyền năng Thánh Thần, kinh nghiệm tình yêu mạnh hơn sự chết. Với niềm tin ấy, ta dám đặt tay vào mái chèo ngay cả khi mặt biển đục ngầu, dám đổ lưới bên phải khi lý trí bảo vô ích, dám đợi lưới đầy trong hy vọng Phục Sinh. Xin Thánh Thần không ngừng thổi gió hiền từ trên buồm đời chúng ta, xin cho tâm hồn ta luôn bừng lửa tình yêu như bếp than Chúa nhóm, để từ bàn tiệc Thánh Thể ta ra đi, tiếp tục hành trình vượt biển, hát lên khúc ai ca tràn trề hy vọng: “Chúa ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế.” Amen.

Lm. Anmai, CSsR

 

 

PHÊRÔ – TÌNH YÊU VÀ SỨ MỆNH

Anh chị em rất thân mến, hôm nay, Chúa Nhật III Phục Sinh năm C, phụng vụ đặt vào tay chúng ta trang Tin Mừng Gioan 21,1-19 – một bức tranh giàu biểu tượng về đời sống Hội Thánh: con thuyền lao đao giữa đêm đen, những mẻ lưới trống rỗng, than hồng ấm áp trên bãi biển, tiếng gọi thân thương của Đấng Phục Sinh, và cuối cùng là cuộc đối thoại đơn sơ nhưng quyết liệt giữa Chúa Giêsu với Phêrô. Nhờ ánh sáng Phục Sinh, tất cả các chi tiết đời thường ấy bừng lên ý nghĩa thần học sâu xa, vạch cho chúng ta một lộ trình sống đức tin giữa cuộc sống đầy cam go thử thách.

Tin Mừng kể: “Suốt đêm ấy, các ông không bắt được gì.” Điều đó không chỉ là chuyện nghề cá thất bại; đó còn là ẩn dụ sống động cho bao bận ròng rã mưu sinh nhưng lòng vẫn ngổn ngang: chúng ta chài lưới tri thức, công danh, lòng người, hạnh phúc… và lắm khi trở về bờ chỉ với chiếc lưới rách. Thế nhưng bình minh vừa ló, một “người lạ” đứng trên bờ ân cần hỏi: “Này các con, không có gì ăn sao?” Lời hỏi rất đời nhưng cũng rất thần linh – lời báo hiệu rằng Thiên Chúa luôn đứng nơi bờ cát cuộc đời chúng ta, chia sẻ cơn đói thể xác lẫn khát vọng tâm hồn.

Khi các môn đệ thú nhận thất bại, Đấng Phục Sinh truyền: “Hãy thả lưới bên mạn phải thuyền.” Họ vâng lời, và một mẻ cá lạ lùng chất ngất niềm vui. Phép lạ không nhằm ca tụng kỹ thuật đánh cá, nhưng tỏ lộ quyền năng của Đấng làm chủ mọi biến cố. Bao lâu chúng ta bám víu vào sức riêng, lưới vẫn rỗng; chỉ khi buông mình cho Lời Chúa dẫn hướng, điều không thể mới thành có thể.

Giữa nao nức vì mẻ cá, Gioan là người đầu tiên nhận ra Thầy: “Chính Chúa đó!” Tại sao? Thưa, Tin Mừng chẳng nói ông tinh thông hơn, khỏe hơn hay ở vị trí quan sát tốt hơn; chỉ nói ông “là người môn đệ Chúa yêu.” Tình yêu làm bén nhạy giác quan tâm linh. Trái tim yêu mến giúp Gioan đọc ra dấu chỉ Thầy qua mẻ cá tràn đầy và than hồng bừng sáng. Những ai giữ lòng son sắt với Chúa cũng sẽ bắt gặp Ngài trong những chi tiết tưởng nhỏ: một người nghèo gõ cửa, một cơ hội sẻ chia, một lời mời tham dự Thánh Lễ ngày thường…

Không đợi thuyền cập bờ, Phêrô khoác áo nhảy ùm xuống nước. Đó là cung cách của một con tim hào sảng: nghĩ là làm, thấy là tin. Dẫu đã từng yếu đuối, từng chối Thầy ba lần, ông vẫn không để mặc mặc cảm kìm hãm. Được Gioan đánh thức, Phêrô phóng mình xuyên làn sóng để đến với Chúa. Lòng nhiệt thành ấy trở thành bài học cho chúng ta: đừng để mặc cảm hay sợ hãi níu chân, nhưng hãy mau mắn trở về khi được đánh động.

Tin Mừng mô tả thật cảm động: “Các ông lên bờ thì thấy có than hồng, trên đó có cá nướng và bánh.” Đấng Phục Sinh không hiện ra như một vị thần oai nghiêm, nhưng như người Cha tất bật dọn bữa sáng. Cử chỉ ấy gợi nhắc Bữa Tiệc Ly và tiên báo Thánh Thể – bí tích trong đó Chúa vẫn ngày ngày “cho chúng ta ăn” để nuôi dưỡng Hội Thánh. Mỗi Thánh Lễ là một bãi biển Tibêriát: giữa bao nhọc nhằn, Chúa dọn sẵn bánh trường sinh, mời ta quây quần và kín múc sức sống mới.

Sau bữa ăn, Chúa dẫn Phêrô vào cuộc đối thoại riêng tư. Ba lần hỏi gợi nhớ ba lần chối Thầy – không phải để khơi lại nỗi nhục, nhưng để chữa lành và củng cố. Ở mỗi lần đáp, Phêrô khiêm tốn hơn, phó thác hiểu biết của mình cho Chúa: “Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Điều kiện tiên quyết để trao quyền lãnh đạo Hội Thánh không phải bằng cấp, tài hùng biện hay thành tích, nhưng là tình yêu. Chỉ ai yêu Chúa hơn hết thảy mới có thể dám sống và chết cho đoàn chiên.

Ngay sau lời tuyên xưng, Chúa đặt Phêrô làm mục tử tối cao: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy.” Quyền ấy được thiết lập không phải để thống trị, nhưng để phục vụ, dẫn dắt và bảo vệ đoàn chiên. Không lạ gì qua dòng lịch sử, ghế Phêrô – toà Giáo Hoàng – trở thành chuẩn mực hiệp nhất. Giữa bao phong ba đạo đời, tiếng nói của Đức Thánh Cha như ngọn hải đăng: ai tin tưởng và vâng phục, người ấy không sợ lạc lối.

Chúa không che giấu viễn tượng khổ đau: “Khi con về già, người ta sẽ dẫn con đến nơi con không muốn.” Lịch sử ghi lại: Thánh Phêrô chịu đóng đinh ngược đầu tại Rôma, lấy cái chết tôn vinh Chúa. Từ đó, vô vàn Kitô hữu – từ các vị tử đạo thời sơ khai đến những nhân chứng thầm lặng hôm nay – vẫn đang hoàn tất phần còn dang dở trong cuộc khổ nạn của Đức Kitô. Ở Iraq, Nigeria, Trung Đông, và cả trong những gia đình đang chịu bách hại tinh thần, biết bao tâm hồn vẫn âm thầm tuyên xưng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là người phàm.”

– Thử thách của thất bại: Khi mẻ lưới cuộc đời rỗng không, chúng ta có dám tin vào lời “thả lưới bên mạn phải” – nghĩa là kiên trì lối sống lương thiện, quảng đại, bất chấp xã hội cổ võ khôn ngoan đời thường?
– Thử thách của tình yêu: Tình yêu Kitô giáo đòi hỏi một con tim bén nhạy như Gioan và nhiệt thành như Phêrô. Là cha mẹ, ta nhận ra Chúa trong đứa con bướng bỉnh; là bạn trẻ, ta nhận ra Chúa trong người bạn cần bàn tay giúp đỡ; là người lao động, ta nhận ra Chúa trong giọt mồ hôi chung phận nghèo.
– Thử thách của hiệp thông: Ta có để lời mời “Hãy đến mà ăn” thúc đẩy mình quy hướng Thánh Thể, chữa lành chia rẽ, xoá bỏ giận hờn, để bàn tiệc gia đình, xứ đạo trở nên ấm lửa phục sinh?
– Thử thách của tuân phục Giáo Hoàng: Giữa đa chiều thông tin, ta có quy chiếu về giáo huấn chính thức của Hội Thánh, lắng nghe vị cha chung, hay phó mình cho dư luận, thành kiến, định kiến?

Trước hết, hãy cầu nguyện cho chính chúng ta – những người dễ ngã lòng khi cá không vào lưới, dễ khép cửa vì sợ hãi, dễ để mặc cảm trói buộc. Xin Chúa Phục Sinh ban Thánh Thần, khơi dậy trong ta đôi mắt của Gioan, sức nhảy vọt của Phêrô, và lòng nhân hậu của Đấng đốt than hồng. Thứ đến, hãy cầu nguyện cho Đức Thánh Cha Phanxicô và hàng Giám mục – những vị mục tử đang gánh lấy “mùi chiên” thời đại; cầu nguyện cho anh chị em đang bị bách hại vì đức tin, cho các gia đình lao đao vì khủng hoảng kinh tế, cho các bạn trẻ loay hoay tìm hướng đi giữa cơn lốc hưởng thụ.

Anh chị em thân mến, mẻ cá lạ lùng, than hồng ấm áp, tiếng gọi ân cần, sứ mạng mục tử, và lời loan báo tử đạo – tất cả hợp thành bản giao hưởng Phục Sinh cho hôm nay. Xin đừng để bài Tin Mừng chỉ là hoài niệm đẹp, nhưng hãy biến nó thành hướng dẫn sống động: khi ta biết thả lưới theo lời Chúa, nhận ra Ngài bằng tình yêu, lao mình về phía Ngài bằng nhiệt huyết, dùng bữa với Ngài trong Thánh Thể, vâng phục Ngài qua tiếng nói Phêrô thời đại, và sẵn sàng hiến mình vì anh chị em, lúc ấy chúng ta thật sự “sống bằng sự hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh”.

Ước gì, khi trở về với đời thường, mỗi chúng ta vẫn vang vọng lời đáp của Phêrô: “Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy,” và biến lời ấy thành hành động cụ thể: yêu mến Chúa nơi phụng vụ, yêu mến Hội Thánh nơi đức vâng phục, yêu mến tha nhân nơi phục vụ hằng ngày. Có như thế, dù biển đời dậy sóng, chiếc thuyền Giáo Hội vẫn hiên ngang tiến về bến bờ vĩnh cửu, dưới ánh sáng hải đăng từ ngai toà Phêrô mà chính Đức Kitô Phục Sinh đã đặt giữa đại dương lịch sử.

 

Lm. Anmai, CSsR

 

 

 

TỪ “TÔI KHÔNG LÀ” ĐẾN “CON YÊU MẾN THẦY”

Bờ hồ Tibêriát khi sương mai còn phảng phất hơi lạnh là bức phông nền tuyệt vời cho cuộc gặp gỡ giữa Đấng Phục Sinh và nhóm môn đệ đang ê chề thất bại. Suốt đêm quăng chài vất vả mà chẳng được gì, họ ngồi chờ bình minh với một nỗi trống rỗng không chỉ nơi tấm lưới mà còn trong chính tâm hồn. Ngọn gió nhẹ lật trang ký ức chua xót về lần chối Thầy của Simon Phêrô, và cũng lật sang trang hy vọng mới khi một tiếng gọi thân thương vang lên từ bờ xa: “Này các anh, có gì ăn không?”

Tiếng gọi ấy đánh thức trực giác của Gioan, người môn đệ được yêu. Ông không cần nhìn rõ mặt, chỉ một nhịp tim thôi đã nhận ra: “Chúa đó!” Phêrô nghe thấy, liền quấn áo, nhảy ùm xuống nước. Dòng nước mát lạnh quấn lấy thân thể trần trụi của ông như một phép rửa tái sinh, dập tắt lửa lầm lỗi, mở đường cho ông bơi về phía bếp than hồng đang cháy.

Cũng là lửa, nhưng lửa đêm nay khác hẳn lửa đêm nọ trong sân dinh Thượng Tế. Ở đó, ngọn lửa xa lạ soi rõ ba lần ông chối bỏ căn tính môn đệ bằng những tiếng “ouk eimi – tôi không là”. Ở đây, lửa yêu thương bập bùng sưởi ấm kẻ phản trắc, rủ rê họ vào bữa sáng thân mật, nơi Đấng Phục Sinh không quở phạt, không hạch hỏi, chỉ mời: “Hãy đem cá các anh vừa bắt được.”

Mẻ lưới chực đứt vì nặng 153 con cá—con số tượng trưng cho mọi loài cá người xưa biết—như dấu chỉ Hội Thánh tương lai sẽ quy tụ khắp nhân loại. Bánh và cá nướng trên than gợi nhớ phép lạ hoá bánh, gợi nhớ bữa Tiệc Ly, gợi nhớ chính Hy Lễ Thập Giá. Tất cả hương vị Phúc Âm ngưng đọng trong bữa ăn bình dị, làm ấm cả dạ dày lẫn trái tim.

Khi than hồng đã nhóm đủ yêu thương, Đức Giêsu hướng mắt về Simon. Ánh nhìn ấy vừa hiền từ, vừa xuyên thấu đến tận đáy linh hồn. “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Câu hỏi vang dội trong vùng ký ức đầy tự mãn của Phêrô: “Dầu mọi người vấp ngã, con sẽ không bao giờ!” Giờ đây ngọn lửa kiêu hãnh cũ tàn lụi; thay vào đó, ông cậy dựa nơi Thầy: “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy.”

Đức Giêsu giao phó: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy.” Lần thứ hai Thầy lặp lại, bỏ hẳn vế “hơn những người này”, tháo gỡ gông tự phụ, kéo Simon trở về khiêm tốn đích thực. Ông đáp vẫn một lòng tin cậy: “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Thầy giao tiếp: “Hãy chăn chiên mẹ.” Lần thứ ba, Thầy dùng chính động từ “phileis”—từ mà lính canh đêm phản bội đã hỏi—để chạm vào vết thương sâu nhất: “Con có thật là bạn hữu của Thầy không?”

Ba lần chối bị xoá bằng ba lần tuyên xưng, nhưng cơn đau vẫn xé tim Phêrô. Ông buồn bã thưa: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Ở khoảnh khắc tuyệt đối phơi mở ấy, Đức Giêsu đặt trọn đoàn chiên vào tay người từng yếu đuối nhất; bởi từ nay, sức mạnh mục tử sẽ không đặt trên cánh tay con người mà đặt trên nền tảng lòng thương xót vô biên.

Để bảo đảm ơn gọi ấy được sống đến cùng, Đức Giêsu tiên báo con đường Thập Giá: “Khi con còn trẻ, con tự thắt lưng, muốn đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi về già, người khác sẽ thắt lưng và dẫn con đến nơi con không muốn.” Thập Giá của Phêrô sẽ ngược chiều, để nhắc rằng nơi con người thấy thất bại, Thiên Chúa mở đường chiến thắng; nơi “tôi không là” vang lên thảm hại, “Ta Là” rực sáng vinh quang.

Hành trình hoán cải ấy không chỉ của Phêrô mà còn của Giáo Hội. Hằng ngày, Hội Thánh cũng trở về bên bếp than Thánh Thể, tự vấn: “Con có yêu mến Thầy không?” Câu hỏi ấy vang lên trong tiếng khóc người di dân, trong nỗi hoang mang đức tin của giới trẻ, trong khát vọng công lý của thai nhi chưa chào đời. Bao lâu ta chưa đáp lời bằng hành động khiêm nhu, bấy lâu ta chưa xứng là bạn hữu Chúa.

Ở tầm gia đình, cha mẹ là mục tử của con cái. Khi con ngỗ nghịch, khi kinh tế lao đao, khi lời cầu nguyện nguội lạnh, bếp than Lời Chúa và Thánh Thể là nơi duy nhất gỡ rối. Cha mẹ biết cúi đầu xin lỗi con, con biết thứ tha, cả nhà biết cầu nguyện chung, là lúc chiếc lưới tình yêu quét lên 153 niềm vui bình dị.

Người trẻ bước ra đời thường thấy mình trắng tay: startup phá sản, tình bạn nhạt phai, đức tin bị chế giễu. Hãy nhớ: đêm cá rỗng không phải dấu chấm hết; chỉ cần vâng lời “thả lưới bên phải”, bình minh sẽ đưa Đấng Phục Sinh hiện diện. Niềm vui tin tưởng ấy biến thất bại thành chứng từ, biến câu hỏi “Tôi là ai?” thành lời đáp “Con yêu mến Thầy.”

Giáo dân sống giữa chợ đời, đôi khi lúng túng trước lệnh cấm vô hình của chủ nghĩa hưởng thụ. Nhưng bất cứ lúc nào ta dám cầm chắc mái chèo lương thiện, dám ngoi lên khỏi dòng nước vô cảm, dám nói thật – sống thật – yêu thật, ta đang thả lưới theo lệnh Thầy. Lưới ấy không rách vì sợi dây dệt bằng lòng tin, hy vọng và mến.

Cuối cùng, mỗi chúng ta được mời gọi tái nghe tiếng “Hãy theo Thầy!”—câu Thầy nói khi gặp Phêrô bên sông Giođan, câu lặp lại hôm nay nhưng mang âm sắc Thập Giá. Theo Thầy không phải để đứng trên đỉnh danh vọng, mà để cúi xuống phục vụ; không phải để tránh gian nan, mà để dám hiến mạng như Thầy.

Sứ điệp cuộc gặp gỡ bên hồ vẫn nóng hổi: khiêm tốn thú nhìn “con trần truồng”, tín thác bước vào lửa Thánh Thể, lắng nghe chất vấn tình yêu, rồi can đảm chăn dắt đoàn chiên. Đó là mô hình cho Đức Phanxicô đêm mật nghị, cho một linh mục trẻ trên đường mục vụ, cho đôi vợ chồng mới cưới, cho người lao công âm thầm trong bệnh viện.

Nếu hôm nay tiếng gà gáy của thời đại vẫn vang lên, nhắc ta về mọi yếu hèn, xin hãy đừng chạy trốn. Hãy quấn áo ân sủng, nhảy xuống nước sám hối, bơi về phía lửa yêu thương. Trước bếp than ấy, ta sẽ nghe câu hỏi duy nhất đủ biến đổi cuộc đời: “Con có yêu mến Thầy không?” Và chỉ cần đáp lại: “Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”, chiếc lưới tưởng rách nát sẽ đầy ắp, chiếc thuyền ủ rũ sẽ căng buồm, còn Đấng “Ta Là” sẽ nở nụ cười hiền hậu: “Hãy đến mà ăn… Hãy ra khơi… Đừng sợ!” AMEN.

 

Lm. Anmai, CSsR

 

 

Back To Top