skip to Main Content

10 bài suy niệm Chúa Nhật Tuần XVII – Mùa Thường Niên – Lm. Anmai, CSsR

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.

1 Một hôm, Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người : “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông.” 2 Người bảo các ông : “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói :

“Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển,
Triều Đại Cha mau đến,
3xin Cha cho chúng con
ngày nào có lương thực ngày ấy ;
4xin tha tội cho chúng con,
vì chính chúng con cũng tha
cho mọi người mắc lỗi với chúng con,
và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.”

5 Người còn nói với các ông : “Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói : ‘Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, 6 vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả’, 7 mà người kia từ trong nhà lại đáp : ‘Xin anh đừng quấy rầy tôi : cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được.’ ? 8 Thầy nói cho anh em biết : dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó.

9 “Thế nên Thầy bảo anh em : anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. 10 Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. 11 Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó ? 12 Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp ? 13 Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao ?”

ĐẸP THAY LỜI NGUYỆN XIN

Không ai là một hòn đảo! Sống trên đời này, mọi người đều có một mối liên hệ này hay liên hệ khác với nhau để rồi nay người này nhờ người kia và mai người kia nhờ người này. Con người, dù muốn dù không vẫn chỉ giúp cho anh chị em đồng loại của mình ở một mức độ cho phép mà thôi.

Khi con người đối diện với những vấn đề ngoài tầm tay thì con người lại chạy đến với những vị thần linh, thần thánh mà mình tôn thờ. Chúa Giêsu khi mặc lấy phận người Ngài cũng phải đương đầu, đối diện với tất cả những khó khăn, những hạn chế của phận người để rồi Ngài lại chạy đến với Chúa Cha mà cầu nguyện.

Với thánh Luca, Ngài thường dành một vị trí hết sức đặc biệt cho lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Thánh Luca thường mở đầu bằng lời cầu nguyện của người Do Thái trong Đền Thờ và kết thúc bằng lời cầu nguyện của cộng đoàn các môn đệ “không ngừng chúc tụng Thiên Chúa trong Đền Thờ”.

Để ghi dấu tất cả những thời điểm quan trọng trong sứ vụ của Chúa Giêsu, Thánh Luca đã ghi lại lời cầu nguyện khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan.

Lời nguyện xin hết sức đơn sơ và thân thiết của trẻ thơ khi thốt lên: “Abba”, nghĩa là: “Lạy Cha”.

Các môn đệ đã chứng kiến lời cầu nguyện của Chúa Giêsu với Chúa Cha không chỉ bằng mắt thấy, mà còn bằng tai nghe. Các môn đệ đã phải nghe Chúa Giêsu cầu nguyện lớn tiếng, và chính trong các biến cố quan trọng, mà các ông đã có thể hình thành cho mình một ý tưởng cầu nguyện riêng. Chúa Giêsu đã muốn người ta nghe Người cầu nguyện, Người rõ muốn xác định lời cầu nguyện của chúng ta bắt nguồn từ lời nguyện của Người.

Thánh Matthêu lại khác với Luca, Mátthêu thuật việc truyền lại kinh Lạy Cha.

Thánh Luca trong khuôn khổ Bài Giảng trên núi thì lại đặt chữ “Lạy Cha” trong khuôn khổ của cuộc hành trình về Giêrusalem, thành phố mà nơi đó, Chúa Giêsu sẽ trút hơi thở cuối cùng trong lời nguyện sau cùng. Chúa Giêsu, “ở một nơi nào đó”, “đang cầu nguyện”, và, khi Người đã cầu nguyện xong, một trong các môn đệ xin Người: “Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện”. Đây không phải là vấn đề cầu nguyện chung chung, mà là lời cầu nguyện, thêm vào những lời cầu nguyện chính thức của niềm tin Do thái, sẽ nêu rõ nét đặc trưng nhóm các môn đệ của Người, theo cách thức – mà chúng ta không biết – mà “Gioan Tẩy Giả dạy các môn đệ ông”. Một lời cầu nguyện tập trung vào điểm chính yếu của sứ điệp Người và xây dựng cộng đoàn các môn đệ chung quanh Người.

Chúa Giêsu đáp lại lời cầu xin của ông bằng một lời cầu nguyện kiểu mẫu. Một lời cầu nguyện mà từ nay, căn cứ vào đó, tất cả các lời cầu nguyện kitô giáo sẽ phải rập theo, cách này hay cách khác: đó là kinh “Lạy Cha”.

Những hoàn cảnh, trong đó lời cầu nguyện kiểu mẫu được phát biểu rất đặc biệt. Chúng giúp các kitô-hữu hiểu rằng, lời cầu nguyện của họ là sự nối dài lời cầu nguyện của Chúa Giêsu; lời cầu nguyện đó phải là sự bắt chước, phản ảnh…Các môn đệ đã nhìn thấy Chúa cầu nguyện, nên đã xin Người hướng dẫn họ cầu nguyện; nói khác đi, đưa dẫn họ vào lời cầu nguyện của Người. Chúa Giêsu đồng ý, bằng cách công bố kinh Lạy Cha. Khi cầu nguyện bằng kinh nầy, và khi hiểu thấu những tình cảm hay ý hướng nó diễn tả, các kitô hữu cầu nguyện như Chúa Giêsu: “Nhờ Người, với Người, trong Người” là một công thức về sau sẽ diễn tả điều mà thánh Luca gợi ý”.

“Kinh Lạy Cha” của thánh Luca ngắn hơn của thánh Matthêu, bao gồm một lời cầu khẩn, hai ước nguyện và ba lời xin ơn.

Một lời cầu khẩn. Để thưa với Thiên Chúa, kinh này lấy lại từ ngữ mà Chúa Giêsu, ngôi Con, dùng trong lời nguyện của riêng ngài: “Lạy Cha” (“Lạy Cha chúng con” trong thánh Mátthêu). Lập tức, lời này mạc khải cho chúng ta chiều sâu của mối liên hệ giữa Chúa Giêsu Kitô và Thiên Chúa.

Lời cầu nguyện kitô giáo, giúp môn đệ Chúa Giêsu bước vào sự thân mật duy nhất liên kết Chúa Con với Chúa Cha. Trong lời cầu nguyện của người con thảo, người kitô hữu có thể lấy lại lời cầu khẩn này của Đức Kitô: “Lạy Cha” (Gl. 4, 6; Rm 8,15 ). Tiếng kêu Cha đó có tính cách riêng biệt, cá nhân. Nó diển tả một sắc thái thân mật và cũng muốn nhấn mạnh là, mối liên hệ duy nhất và đặc biệt mà Chúa Con có với Chúa Cha cũng là mối liên hệ nối kết tất cả các kitô hữu với Thiên Chúa.”

Với hai ước nguyện cùng hiện diện song song trong lời nguyện của người Do Thái.

Sự thánh hóa Danh Thiên Chúa: chớ gì Thiên Chúa can thiệp và tỏ rõ mình là Thiên Chúa, ước mong Người được mọi người nhận biết!

Nước Ngài trị đến: chớ gì Thiên Chúa đích thân ngự đến và tỏ lộ ra sự hiện diện cao cả và năng động của ngài!

“Lạy Cha, xin ngự đến” đã được làm thành công thức dưới hai hình thức khác nhau; Thiên Chúa là “đối tượng” duy nhất của lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa”

Ba lời xin ơn, được diễn tả, không phải ở ngôi thứ nhất số ít: “Con”, nhưng ở ngôi thứ nhất số nhiều: “Chúng con”, các môn đệ thân thưa với Thiên Chúa cho chính họ với tư cách là một cộng đoàn.

Để tiếp tục cuộc hành trình lữ thứ trần gian, lời xin ơn thứ nhất hướng về “cơm bánh mà chúng con cần mỗi ngày”. “Trước hết ở đó, có sự ám chỉ đến manna, bánh từ trời đã hồi phục dân Thiên Chúa trong thời kỳ Xuất Hành, và, theo sự mong đợi của dân Do Thái, bánh này sẽ lại được trao ban như là lương thực cho cộng đoàn của thời sau hết. Nơi thánh Luca, các tín hữu được mời gọi cầu xin Bánh hằng sống nầy hằng ngày”

“Sự tha thứ tội lỗi của chúng con” đó là điều hai mà lời xin nhắm đến. Ơn tha thứ là ơn huệ nhưng không của Thiên Chúa. Nếu đã trót phạm tội với Chúa mà không có ơn tha thứ, chúng ta sẽ không thể nào sống trong tình thân với Thiên Chúa, vì chúng ta là những con nợ chẳng có gì để mà trả được cả. Ơn tha thứ đó cần thiết cho chúng ta còn hơn là cơm bánh. Hơn nữa, chúng ta còn phải tha thứ cho các con nợ của chúng ta, nếu không, Thiên Chúa sẽ không thứ tha cho chúng ta.

Với con người, vốn mỏng dòn yếu đuối, luôn phải đối diện với những cơn cám dỗ thì lời xin ơn thứ ba, lời xin sau cùng liên hệ đến sự trợ giúp trong “cơn cám dỗ”. Chúng ta không xin cho chúng ta được miễn trừ khỏi cơn cám dỗ hay thử thách: Chính Chúa Giêsu đã được Thánh Thần đưa đến hoang địa để chịu ma quỉ cám dỗ trước khi lên đường thực thi sứ vụ công khai loan báo Tin mừng của Ngài. Chúng ta cầu xin đừng sa chước cám dỗ, theo ý nghĩa của lời cầu cho Phêrô, trong chương 22 câu 32: “Thầy cầu nguyện cho con, để con không mất đức tin”. Chúng ta cầu xin cho thử thách không làm chúng ta ngã quị, cho chúng ta đừng sa vào kế hoạch của Tên Cám Dỗ.

Với lời nguyện tin tưởng và kiên trì. Chúa Giêsu tiếp nối bằng một dụ ngôn và những lời cắt nghĩa cho dụ ngôn được rõ hơn.

Dụ ngôn là dụ ngôn người bạn quấy rầy, nhân danh tình bạn, không sợ làm phiền một trong những người bạn của mình, ngay “lúc giữa đêm”, và không ngại nằn nỉ đến độ “sỗ sàng”, để giúp đỡ một người bạn khác, đường xa mới đến.

Cũng chính với sự tin tưởng, sự kiên trì, táo bạo, làm nền tảng cho tình yêu của Người mà chúng ta dám thân thưa với Thiên Chúa: “Chúa Giêsu nhấn mạnh, các con hãy xin, thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ thấy; hãy gõ, thì cửa sẽ mở cho các con…”

Vốn dĩ là một người cha nhân hậu, người cha tốt lành, Thiên Chúa chẳng lẽ không lắng nghe lời cầu nguyện của con cái Người. Tốt lành hơn mọi người cha trên trái đất, Chúa Cha trên trời sẽ trao ban cho những ai cầu xin Người ơn huệ tuyệt hảo: Chúa Thánh Thần.

Các nay hai tuần, khi đọc dụ ngôn Người Samaritanô Nhân Hậu, chúng ta biết rằng, để đi theo Chúa Giêsu lên Giêrusalem, chúng ta phải bước qua con đường tình yêu tha nhân, một tình yêu vượt trên tất cả mọi thứ lề luật. Chúa Nhật vừa qua, trong nhà của Mátta và Maria, chúng ta khám phá ra rằng con đường này là con đường lắng nghe Lời Chúa. Hôm nay, chúng ta được báo cho biết, con đường nầy cũng là “con đường của lời cầu nguyện khiêm nhường, tin tưởng và kiên trì, con đường trao ban Thánh Thần và sẽ được Người tác động”.

Xin cho mỗi người chúng ta học nơi gương của Chúa Giêsu luôn kiên trì, luôn khiêm tốn chạy đến với Cha là Thiên Chúa giàu lòng thương xót để Ngài ban những ơn lành cần thiết cho chúng ta để chúng ta vượt qua tất cả những khó khăn thử thách của cuộc đời.

 

Lm. Anmai, CSsR

 

 

LỜI KINH TUYỆT VỜI: CẦU NGUYỆN TRONG THẦN KHÍ CON THẢO

Cuộc sống con người luôn chất chứa những ước muốn, những khao khát. Khi gặp khó khăn, khi đối mặt với thử thách, bản năng tự nhiên thúc đẩy chúng ta tìm kiếm sự giúp đỡ, và với người có niềm tin, đó là tìm đến Thiên Chúa. Tuy nhiên, cách chúng ta cầu nguyện, cách chúng ta tìm đến Ngài, lại bộc lộ sâu sắc mối tương quan của chúng ta với Đấng Tạo Hóa.

Có một câu chuyện kể về nhà thần bí Hồi giáo tên là Farid, ông đến kinh đô Delhi để xin hoàng đế Akbar ban cho dân làng một ân huệ. Farid đến cung điện và gặp lúc Akbar đang đắm mình cầu nguyện. Khi hoàng đế cầu nguyện xong, Farid hỏi: “Nhà vua vừa cầu nguyện như thế nào?” Nhà vua đáp: “Ta cầu xin Đấng nhân từ ban cho ta sự thành công, giàu có và được sống lâu.” Vừa nghe xong, Farid liền quay lưng lại và bỏ đi. Vừa đi ông vừa nói: “Ta đến gặp một vị vua. Thế mà ta lại gặp một kẻ ăn xin, không khác gì những hạng người khác!”

Câu chuyện này là một tiếng chuông cảnh tỉnh mạnh mẽ. Nó mời gọi chúng ta nhìn lại cách mình cầu nguyện. Có phải chúng ta cũng thường đến với Thiên Chúa như một “kẻ ăn xin”, chỉ biết liệt kê những ước muốn riêng tư, những nhu cầu vật chất? Hay chúng ta đến với Ngài trong một mối tương quan sâu sắc hơn, một mối tương quan của con thảo với Cha?

Bài Tin Mừng hôm nay (Lc 11,1-13) đưa chúng ta vào một bài học vô cùng quý giá về cầu nguyện, được chính Đức Giêsu, Người Con Duy Nhất của Cha, dạy cho các môn đệ. Đó là Kinh Lạy Cha, một lời kinh tuyệt vời, bao gồm bốn tâm tình cốt yếu của đời sống cầu nguyện đích thực.

Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta không chỉ cầu xin mà còn phải có thái độ đúng đắn khi đến với Thiên Chúa. Kinh Lạy Cha bao gồm bốn tâm tình chính yếu: tôn thờ, thống hối, cảm tạ và xin ơn.

Lời kinh bắt đầu bằng sự tôn thờ, ca ngợi, vinh danh Chúa trong câu đầu tiên: “Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến” (Lc 11,2). Đây là lời khởi đầu mang tính nền tảng. Khi chúng ta cầu nguyện, điều đầu tiên không phải là những gì chúng ta muốn, mà là nhận biết Thiên Chúa là ai: Ngài là Cha, là Đấng Thánh, là Đấng có Triều Đại vinh quang.

Việc cầu xin cho “danh Cha vinh hiển” và “triều đại Cha mau đến” là đặt ý muốn của Thiên Chúa lên trên mọi ý muốn cá nhân. Đó là một hành vi thờ phượng đích thực, một sự tôn vinh không vụ lợi, xuất phát từ trái tim nhận biết sự vĩ đại và thánh thiện của Thiên Chúa. Nó giúp chúng ta thoát khỏi chủ nghĩa vị kỷ trong lời cầu nguyện, hướng tầm nhìn về Thiên Chúa và kế hoạch cứu độ của Ngài.

Sau khi tôn thờ, chúng ta được mời gọi bày tỏ tâm tình thống hối bằng lời xin lỗi: “Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con” (Lc 11,4). Đây là một lời xin lỗi chân thành, nhận biết sự yếu đuối và tội lỗi của bản thân. Điều đặc biệt là lời xin lỗi này đi kèm với một điều kiện: chúng ta chỉ mong được Thiên Chúa tha thứ khi chính chúng ta cũng đã tha thứ cho những người mắc lỗi với mình.

Điều này nhấn mạnh rằng mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa không thể tách rời khỏi mối tương quan của chúng ta với tha nhân. Lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho chúng ta tỷ lệ thuận với lòng thương xót mà chúng ta dành cho anh chị em. Sự tha thứ là chìa khóa để lòng chúng ta được thanh tẩy, để lời cầu nguyện của chúng ta được Thiên Chúa lắng nghe.

Trong Kinh Lạy Cha, tâm tình cảm tạ Chúa được mặc nhiên bao hàm ngay trong tâm tình thờ phượng. Khi chúng ta ca ngợi, tôn vinh Chúa, đồng thời chúng ta cũng đang mặc nhiên cảm tạ những hồng ân Người ban. Bởi lẽ, sự vinh hiển và quyền năng của Chúa được thể hiện qua chính những điều kỳ diệu Ngài đã tạo dựng và những ơn lành Ngài đã ban cho chúng ta.

Mỗi hơi thở, mỗi ngày sống, mỗi khoảnh khắc của tình yêu thương đều là một hồng ân. Khi chúng ta nhận ra điều đó, lời ca ngợi Chúa sẽ trở nên trọn vẹn hơn, bởi vì nó xuất phát từ một trái tim biết ơn.

Cuối cùng, tâm tình cầu xin được biểu lộ trong hai câu: “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy” (Lc 11,3), và “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.” (Lc 11,4).

Lời cầu xin cho “lương thực hằng ngày” không chỉ nói về nhu cầu vật chất, cơm ăn áo mặc, mà còn cả “Bánh hằng sống” là Lời Chúa và Bí tích Thánh Thể, nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng. Lời cầu xin này thể hiện sự tín thác hoàn toàn vào sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài biết rõ những gì chúng ta cần và sẽ ban cho chúng ta đúng lúc.

Lời cầu xin “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” là lời cầu xin cho nhu cầu phần hồn. Chúng ta nhận biết sự yếu đuối của mình trước những cám dỗ của ma quỷ và thế gian, và xin Chúa ban ơn để chúng ta không bị sa ngã, để chúng ta được gìn giữ trong ân sủng của Ngài.

Như thế, Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời, vì đã đặt sự cao trọng, vinh danh, và thánh ý Chúa trên hết; sau đó mới xin cho các nhu cầu của chúng ta, nên rất được Chúa Cha ưa thích. Chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha, một mối tương quan thân mật nhất, và chúng ta là con cái của Người. Chúng ta xin Cha ban ơn không những phần xác mà cả phần hồn; chúng ta xin Cha không chỉ tha tội trong quá khứ mà còn gìn giữ cho khỏi cám dỗ ở tương lai, nên chắc chắn sẽ được Chúa Cha đón nhận.

Sau khi đã dạy chúng ta lời kinh tuyệt vời đó, Đức Giêsu còn khuyên chúng ta hãy kiên nhẫn và trông cậy mà cầu nguyện, minh họa bằng dụ ngôn về người bạn nửa đêm gõ cửa xin bánh và người cha biết cho con những điều tốt lành.

Đức Giêsu không chỉ dạy chúng ta cầu nguyện đúng cách mà còn dạy chúng ta cầu nguyện với thái độ đúng đắn. Phải kiên nhẫn trong khi cầu nguyện là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Người sẽ ban. Giống như việc một đứa trẻ cứ nài nỉ cha mẹ cho đến khi được, sự kiên nhẫn trong cầu nguyện thể hiện lòng khao khát chân thành và sự tin tưởng vững vàng vào Thiên Chúa.

Nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn. Có thể điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi thực sự cho linh hồn chúng ta, hoặc Người muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn, một điều gì đó tốt đẹp hơn mà chúng ta chưa nhận ra. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy tình nhân ái, Đấng biết rõ điều gì là tốt nhất cho con cái Ngài.

Và trên hết, phải trông cậy trong khi cầu nguyện vì Chúa đã hứa: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho.” (Lc 11,9). Lời hứa này là một sự bảo đảm tuyệt đối cho lòng trông cậy của chúng ta. Đức Giêsu khẳng định lại chân lý này bằng hình ảnh một người cha trần gian, dù có độc ác đến đâu, cũng không nỡ cho con mình đá thay bánh, rắn thay cá hay bọ cạp thay trứng. Vậy huống chi Thiên Chúa Cha, Đấng tốt lành vô cùng, lại không ban Thánh Thần cho những ai xin Người! (Lc 11,11-13).

Cha phước Mẹ Têrêxa Calcutta đã chia sẻ kinh nghiệm này như sau: “Chúng tôi có hơn một ngàn tu sĩ, và còn phải nuôi ăn hàng chục ngàn người. Thế mà, chưa bao giờ chúng tôi phải từ chối bất cứ một ai đến xin giúp đỡ. Chúa luôn can thiệp kịp thời để cho chúng tôi thấy rằng Người không bao giờ làm lơ trước lời cầu nguyện của chúng ta.” Đây là một chứng tá sống động về lòng trông cậy không lay chuyển vào Thiên Chúa quan phòng. Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Mẹ đã sống trong sự phó thác hoàn toàn, và Thiên Chúa đã không ngừng ban phát những gì họ cần để thực hiện sứ mạng yêu thương.

Bài học về cầu nguyện của Đức Giêsu không chỉ là lý thuyết, mà là một kim chỉ nam cho đời sống thiêng liêng của chúng ta.

Hãy nhìn lại câu chuyện về hoàng đế Akbar và nhà thần bí Farid. Chúng ta có đến với Thiên Chúa chỉ để “ăn xin”, để liệt kê một danh sách dài các yêu cầu cá nhân, vật chất và ích kỷ? Hay chúng ta đến với Ngài với một trái tim tôn thờ, nhận biết Ngài là Cha, là Vua, là Đấng Tối Cao đáng được vinh hiển trên hết mọi sự?

Việc đặt “danh Cha vinh hiển” và “triều đại Cha mau đến” lên hàng đầu giúp chúng ta định hướng lại mục đích của lời cầu nguyện. Khi chúng ta thực sự khao khát vinh quang của Chúa và sự ngự trị của Nước Ngài, những lo toan riêng tư sẽ được đặt đúng vị trí, và chúng ta sẽ dễ dàng chấp nhận ý Chúa, dù điều đó có khác với ý mình.

Lời xin “xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con” là một lời nhắc nhở không ngừng về lòng thương xót. Chúng ta không thể mong nhận được ơn tha thứ của Chúa nếu trái tim chúng ta vẫn còn chứa chấp hận thù, cố chấp, hay không tha thứ cho anh chị em mình. Việc tha thứ cho người khác là cánh cửa mở ra ơn tha thứ của Thiên Chúa cho chính chúng ta.

Lời cầu xin cho lương thực và tránh cám dỗ dạy chúng ta sự tín thác hoàn toàn vào Chúa. Chúng ta xin Ngài ban cho những gì cần thiết cho cuộc sống hằng ngày, cả về vật chất lẫn tinh thần. Chúng ta nhận biết sự yếu đuối của mình trước cám dỗ và xin ơn Chúa Thánh Thần để vượt qua. Sự tín thác này không có nghĩa là buông xuôi, không cố gắng, mà là làm hết sức mình và phó thác phần còn lại cho Chúa, tin rằng Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta.

Hãy học bài học về sự kiên nhẫn và trông cậy. Đừng nản lòng khi lời cầu nguyện không được đáp lại ngay lập tức hoặc không theo cách chúng ta mong đợi. Thiên Chúa có kế hoạch của Ngài, và thời điểm của Ngài luôn là hoàn hảo. Hãy tiếp tục xin, tiếp tục tìm, tiếp tục gõ cửa, với niềm tin vững vàng rằng Cha trên trời luôn sẵn lòng ban những điều tốt lành nhất cho con cái Ngài, đặc biệt là Chúa Thánh Thần.

Kinh Lạy Cha không chỉ là một lời kinh để đọc thuộc lòng, mà là một mẫu mực tuyệt vời cho đời sống cầu nguyện của mỗi Kitô hữu. Đó là lời kinh dạy chúng ta trở thành những người con thảo thực sự của Thiên Chúa, biết tôn thờ Cha, biết khiêm tốn thống hối, biết cảm tạ hồng ân, và biết tín thác hoàn toàn khi cầu xin.

Khi chúng ta cầu nguyện với bốn tâm tình này, lời cầu nguyện của chúng ta sẽ không còn là lời than vãn của “kẻ ăn xin” mà là lời đối thoại thân tình của người con với Cha. Lời cầu nguyện đó sẽ đẹp lòng Chúa Cha và chắc chắn sẽ được Ngài đón nhận, ban cho chúng ta không chỉ những gì chúng ta xin, mà còn ban chính Chúa Thánh Thần, nguồn mạch của mọi ân sủng và sự sống đời đời.

Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện, như Chúa đã dạy các môn đệ xưa. Xin giúp chúng con thoát khỏi thói quen cầu xin hời hợt, ích kỷ.

Xin ban cho chúng con Thần Khí của sự khiêm tốn để chúng con biết tôn thờ Cha trên hết mọi sự. Xin ban cho chúng con lòng thống hối chân thành và tình yêu tha thứ cho anh chị em. Xin củng cố lòng trông cậy của chúng con để chúng con kiên trì cầu nguyện, tin tưởng vào sự quan phòng và tình yêu của Cha.

Xin cho mỗi lời kinh của chúng con không chỉ là một bảng liệt kê ước muốn, mà là một cuộc gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa, một sự tôn vinh Cha, và một sự phó thác trọn vẹn trong tình yêu của Ngài.

Lm. Anmai, CSsR

 

 

 

CẦU NGUYỆN: HƠI THỞ CỦA LINH HỒN TRI ÂN

Trong một thế giới hiện đại, chúng ta thường chứng kiến những giá trị, những thái độ sống đôi khi gây ra nhiều suy tư. Người Âu Mỹ, chẳng hạn, vốn có lòng quý trọng đặc biệt đối với súc vật. Người ta đã thiết lập những hội bảo vệ súc vật, xây những dưỡng đường để điều trị cho chúng, và thậm chí có cả những nghĩa trang dành riêng cho súc vật cưng. Phải chăng lòng quý trọng này có điều gì đó bất ổn và thái quá khi so với cách chúng ta đối xử với chính con người? Mặc dù con vật thì thấp kém hơn con người rất nhiều về trí tuệ và linh hồn, nhưng đôi khi, chính chúng lại có những điều đáng làm cho chúng ta phải suy nghĩ sâu sắc.

Chẳng hạn, một con chó, dù không có trí khôn như con người, nhưng lại biết vẫy đuôi chào mừng, nhảy cẫng lên vui sướng khi chủ nó trở về sau một ngày dài. Sự chào đón đó thể hiện một cách hồn nhiên lòng trung thành và biết ơn. Trong khi đó, thật đáng buồn thay, nhiều người trong chúng ta lại chẳng biết mở miệng chào hỏi những bậc bề trên, những ân nhân của mình, hay những người đã dành tình yêu thương và sự giúp đỡ cho mình. Dĩ nhiên, sự trung thành và biết ơn của một con chó phần lớn là do thói quen, bản năng và bị hạn chế nhiều lắm. Nhưng nó đặt ra một câu hỏi day dứt cho chúng ta: Vậy còn chúng ta, những con người có trí khôn, có ý chí tự do, có linh hồn bất tử, lòng biết ơn và sự trung thành của chúng ta đối với Đấng Tạo Hóa, Đấng là nguồn mọi ơn lành, như thế nào?

Từ đó, chúng ta đi vào mối liên hệ sâu sắc nhất của đời sống Kitô hữu: mối liên hệ với Thiên Chúa qua việc cầu nguyện.

 

Buổi sáng khi thức dậy, khởi đầu cho một ngày mới với biết bao ơn huệ Chúa ban – hơi thở, sức khỏe, một ngày nữa để sống, để yêu thương và để phục vụ – chúng ta có biết dừng lại đôi chút để cầu nguyện và thân thưa với Chúa hay không? Đây là một câu hỏi mà mỗi người chúng ta cần tự vấn lòng mình.

Thật đáng buồn, nhiều người đã đưa ra 1001 lý do để khước từ việc làm tốt đẹp này. Nào là còn biết bao nhiêu công việc phải làm, nào là có biết bao nhiêu tin tức phải lắng nghe và ghi nhận từ thế giới bên ngoài, không còn đủ thời giờ để suy tư và cầu nguyện nữa. Chúng ta dễ dàng bị cuốn vào vòng xoáy của những bận rộn, của những lo toan vật chất, của những thông tin chồng chất. Chúng ta vội vã bật điện thoại, kiểm tra mạng xã hội, đọc tin tức, chuẩn bị công việc, mà bỏ quên một cuộc gặp gỡ quan trọng nhất – cuộc gặp gỡ với Đấng Tạo Hóa, Đấng đã ban tặng cho chúng ta chính ngày hôm đó.

Có những người, mặc dù vẫn còn duy trì việc cầu nguyện, nhưng lại chỉ làm vì thói quen, như một cái máy với một vận tốc hết sức mau lẹ. Những lời kinh được đọc một cách vô hồn, vội vã, không có chiều sâu, không có tâm tình. Lời kinh trở thành một nghĩa vụ hơn là một cuộc đối thoại thân mật với Thiên Chúa. Chúng ta đọc kinh Mân Côi mà tâm trí lơ lửng ở đâu đó. Chúng ta tham dự Thánh Lễ mà lòng trí xao nhãng. Việc cầu nguyện trở thành một hình thức bề ngoài, một nghi lễ trống rỗng, thiếu đi sự kết nối thật sự với Đấng mà chúng ta đang hướng về.

Thiên Chúa, Đấng cho mặt trời mọc lên mỗi buổi sáng, để khởi đầu một ngày mới, phải được chúng ta ca tụng và chào kính với những tình cảm chân thành nhất, xuất phát từ trái tim. Ngài không cần chúng ta phải dâng lên những lời hoa mỹ hay những nghi thức phức tạp. Ngài cần một trái tim biết tri ân, một tâm hồn biết nhận ra ơn lành và hướng về Ngài với lòng mến yêu. Mặc dù không có trí khôn, nhưng con chó còn biết cách biểu lộ sự biết ơn của mình một cách hồn nhiên, chân thành. Trong khi đó, con người, là tác phẩm tuyệt vời nhất của Thiên Chúa, được tạo dựng giống hình ảnh Ngài, được ban cho trí khôn và ý chí tự do, thì lại chỉ biết đón nhận hết điều nọ đến điều kia, hết ơn lành này đến ơn lành khác, mà lại chẳng tỏ ra biết ơn một chút nào cả.

Sở dĩ như vậy là vì con người đã quên mất những kỷ niệm về sự can thiệp của Chúa trong đời mình, và đã quên đi sự nương nhờ của mình vào Thiên Chúa. Cuộc sống với những tiện nghi ngày càng nhiều, với sự dễ dãi trong mọi thứ, đã làm cho chúng ta quên mất những hồng ân kỳ diệu của Thiên Chúa và dần dần, dường như không còn cần đến Ngài nữa. Chúng ta tự mãn với những gì mình có, tự cho mình là đủ, không nhận ra rằng mọi thứ đều là quà tặng. Suy nghĩ và hành động như vậy, nên con người thời nay, dù có mọi tiện nghi vật chất, lại luôn cảm thấy khắc khoải và bất hạnh hơn lúc nào hết. Sự thiếu vắng Thiên Chúa trong tâm hồn là nguyên nhân sâu xa của mọi nỗi bất an và trống rỗng.

Với chúng ta, những người Kitô hữu, chúng ta được mời gọi sống khác. Trước khi khởi đầu một ngày mới với những công việc bận rộn, chúng ta hãy tìm gặp Chúa trong những tâm tình cầu nguyện. Đây không phải là một nghĩa vụ nặng nề, một sự ép buộc, mà là một việc làm xuất phát tự con tim, một khao khát tự nhiên của linh hồn.

Bởi vì lời cầu nguyện là tiếng nói của một con tim nghèo nàn trước Đấng Tối Cao. Lời cầu nguyện không phải là để Thiên Chúa biết nhu cầu của chúng ta – Ngài đã biết rồi. Lời cầu nguyện là để chúng ta nhận ra sự nghèo nàn của mình, nhận ra sự phụ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa. Đó là lúc chúng ta khiêm tốn thưa lên với Chúa: “Lạy Chúa, con cần đến Chúa như cần đến khí trời để thở.” Giống như thân xác cần không khí để duy trì sự sống, linh hồn chúng ta cần Thiên Chúa để tồn tại và phát triển. Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn, là nhịp đập của trái tim hướng về Đấng Tạo Hóa.

Có kẻ lại bảo: “Cầu nguyện cũng chẳng ích lợi chi! Tôi bận rộn quá, cầu nguyện tốn thời gian mà có thấy được gì đâu.” Quan điểm này xuất phát từ sự hiểu lầm về bản chất của cầu nguyện. Chúng ta nên nhớ điều này: Cầu nguyện không phải chỉ là cầu xin, dù việc cầu xin cũng là một phần quan trọng của lời cầu nguyện, bởi chúng ta là những kẻ thiếu thốn cần được lấp đầy. Nhưng trước tiên, cầu nguyện phải là ca ngợi và cảm tạ Thiên Chúa.

Ca ngợi Thiên Chúa: Chúng ta ca ngợi sự vĩ đại, sự khôn ngoan, lòng tốt lành vô biên của Ngài. Khi chúng ta ca ngợi, tâm hồn chúng ta được nâng cao lên khỏi những lo toan trần thế, hướng về Đấng Hằng Hữu, Đấng trọn lành.

Cảm tạ Thiên Chúa: Chúng ta cảm tạ Ngài vì mọi ơn lành đã ban, vì sự hiện hữu của mình, vì tình yêu mà Ngài không ngừng tuôn đổ. Lòng biết ơn mở rộng trái tim, giúp chúng ta nhận ra sự phong phú của cuộc sống và sự quan phòng của Thiên Chúa.

Ngài không cần đến chúng ta. Ngài là Đấng Tự Hữu, Đấng trọn vẹn và không cần gì từ bất cứ ai. Trái lại, chúng ta luôn cần đến Ngài. Chúng ta cần ơn Ngài để sống, cần Lời Ngài để định hướng, cần Tình Yêu Ngài để tồn tại. Cầu nguyện là một hành động của tình yêu, là cách chúng ta thể hiện sự phụ thuộc và lòng tin tưởng vào Thiên Chúa.

Cho dù có quên đi mọi lời kinh mà chúng ta đã học thuộc, thì ít nhất cũng còn đọng lại kinh Lạy Cha, một lời kinh kiểu mẫu mà chính Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ. Kinh Lạy Cha là một lời kinh đơn sơ nhưng chứa đựng một chiều sâu vô cùng. Nó tóm gọn mọi khao khát của con người: ca ngợi Thiên Chúa, xin Ngài ban cho chúng ta những gì cần thiết cho đời sống thể lý và tâm linh, xin Ngài tha thứ tội lỗi và gìn giữ chúng ta khỏi sự dữ. Đây là lời kinh mà ai cũng có thể đọc, và là khởi điểm cho mọi cuộc đối thoại với Thiên Chúa.

Con người luôn cần đến Thiên Chúa. Đây là một chân lý sâu xa được khắc ghi trong tận cùng tâm hồn mỗi người. Dù chúng ta có cố gắng chối bỏ, dù chúng ta có tìm cách lấp đầy khoảng trống tâm linh bằng những thứ vật chất phù phiếm, thì khao khát Thiên Chúa vẫn luôn hiện hữu, như một vết thương không thể lành nếu không được Đấng Tạo Hóa chữa lành.

Cho nên, anh chị em thân mến, hãy tìm gặp Ngài trong những tâm tình cầu nguyện của mình.

Hãy biến cầu nguyện thành hơi thở của linh hồn. Không cần phải những lời lẽ hoa mỹ, không cần phải những giờ kinh dài dòng. Một lời thì thầm, một cái nhìn lên trời, một tiếng thở dài trong những giây phút khó khăn, hay một nụ cười tạ ơn trong niềm vui – tất cả đều có thể là lời cầu nguyện.

Hãy cầu nguyện bằng cả trái tim, chứ không phải chỉ là sự lặp lại máy móc. Hãy để lời cầu nguyện của chúng ta xuất phát từ những cảm xúc chân thật nhất: từ niềm vui, từ nỗi buồn, từ sự hối hận, từ lòng biết ơn, từ khát khao và sự tin tưởng.

Hãy tìm gặp Chúa trong mọi hoàn cảnh: trong bận rộn, trong tĩnh lặng, trong thành công, trong thất bại, trong bình an, trong giông bão. Ngài luôn ở đó, lắng nghe tiếng lòng của chúng ta.

Hãy cầu nguyện cho người khác: Cho những người mà chúng ta yêu thương, cho những người đang đau khổ, cho cả những người thù ghét chúng ta. Khi chúng ta cầu nguyện cho tha nhân, chúng ta đang sống theo Tình Yêu của Thiên Chúa và mở rộng trái tim mình.

Lời cầu nguyện là cửa ngõ đưa chúng ta đến với Thiên Chúa. Đó là phương thế để chúng ta duy trì mối tương quan sống động với Đấng là nguồn sự sống và hạnh phúc của chúng ta. Nó là cách chúng ta bày tỏ lòng biết ơn, sự tin tưởng, và tình yêu thương của mình đối với Ngài.

Anh chị em thân mến, trong cuộc đời đầy bận rộn và lo toan này, chúng ta được mời gọi đừng quên đi “điều cần” nhất cho linh hồn mình: đó là Thiên Chúa, và cách để kết nối với Ngài chính là cầu nguyện. Đừng để những tiện nghi và dễ dãi của cuộc sống làm chúng ta quên mất những hồng ân và sự nương nhờ vào Thiên Chúa. Đừng để lòng biết ơn của chúng ta thua kém lòng trung thành của một con vật vô tri.

Hãy dành thời gian, dù chỉ là vài phút mỗi ngày, để tìm gặp Chúa trong những tâm tình cầu nguyện của mình. Hãy để lời cầu nguyện trở thành hơi thở của linh hồn, tiếng nói của trái tim nghèo nàn trước Đấng Tối Cao.

Nguyện xin Thiên Chúa, Đấng là nguồn mọi ơn lành, ban cho mỗi người chúng ta ơn biết cầu nguyện một cách chân thành, để chúng ta luôn sống trong lòng biết ơn, trong sự trung thành, và trong mối tương quan mật thiết với Ngài, hầu đạt được bình an và hạnh phúc đích thực. Amen.

 

Lm. Anmai, CSsR

 

 

LỜI KINH ĐẦY TÂM TÌNH – MỐI TƯƠNG GIAO MẬT THIẾT VỚI ABBA CHA

Bài Tin Mừng hôm nay mở ra trước mắt chúng ta một khung cảnh quen thuộc nhưng chất chứa một mầu nhiệm sâu thẳm: Đức Giêsu đang cầu nguyện, và các môn đệ vây quanh. Điều này không hề ngẫu nhiên. Nó mời gọi chúng ta chiêm nghiệm về ý nghĩa đích thực của lời cầu nguyện, không chỉ là một hành vi đạo đức, mà là một tình trạng của linh hồn, một mối tương giao sống động với Thiên Chúa.

Khác với lời cầu nguyện của nhà khổ chế Gioan Tẩy Giả trong sa mạc, vị ngôn sứ rao giảng sự sám hối và kêu gọi đổi đời, lời cầu nguyện của Đức Giêsu bày tỏ bí mật thâm sâu trong mối tương giao thân mật của Người với Chúa Cha. Ngoài việc tuân thủ nghi thức và thói quen của người Do Thái, Đức Giêsu cho thấy lời cầu nguyện còn có ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Đó không chỉ là việc đọc kinh hay thực hiện nghi lễ, mà là sự hòa mình trọn vẹn vào tình yêu Thiên Chúa.

Trong cuộc sống dương thế của mình, Đức Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha rất lâu giờ và cũng tràn đầy tình yêu mến. Sau cả ngày mệt nhọc với những hành trình rao giảng, chữa bệnh, Ngài vẫn thường rút lui vào chốn thinh lặng để cầu nguyện, như thể đó là hơi thở của sự sống. Dường như Người có thể bỏ việc này việc khác, nhưng không thể bỏ việc cầu nguyện. Đó là những thời khắc Người tiếp xúc thân mật, rất riêng tư với Chúa Cha; trong đó Người thông hiệp trọn vẹn với Chúa Cha, đi sâu vào chương trình huyền nhiệm của Ngài, và gắn bó trọn vẹn với thánh ý của Ngài. Có lần, dân chúng và cả các môn đệ, đi tìm Đức Giêsu. Các ông gặp thấy Người trong trạng thái đầy vui mừng, hân hoan, một niềm hân hoan sâu xa từ cuộc gặp gỡ thần linh. Các ông không dám đến gần, không dám lên tiếng vì cảm nghiệm sự linh thiêng. Nhưng cuối cùng, nỗi khao khát được kết nối với Thiên Chúa như Thầy đã thúc đẩy các ông xin Người chỉ cho cách thức cầu nguyện. Và đó là lúc chúng ta nhận lãnh “Kinh Lạy Cha” – không chỉ là một lời kinh, mà là một tinh thần cầu nguyện mới.

Lời cầu nguyện Đức Giêsu dạy các môn đệ, đặc biệt là cách Ngài truyền cho họ gọi Thiên Chúa là Cha (Abba), đã đưa các ông vượt khỏi suy nghĩ bình thường. Đối với người Do Thái xưa, Thiên Chúa là Đấng Chí Tôn, Chí Thánh, đáng kính sợ đến nỗi ngay cả việc gọi tên, họ cũng không dám. Việc gọi Ngài là Cha, đặc biệt là Abba – tiếng gọi thân thương của con thơ dành cho cha mình – là một hành động táo bạo, tưởng chừng như cao ngạo, có thể gây gương mù cho những người quen với luật lệ nghiêm ngặt.

Nhưng chính trong sự táo bạo đó lại ẩn chứa một mặc khải mấu chốt trong sứ điệp của Đức Giêsu, là chìa khóa cho tất cả cuộc đời và hoạt động của Người. Nó làm thay đổi hoàn toàn mối tương quan giữa con người và Thiên Chúa.

Thiên Chúa là Cha thân yêu của tất cả mọi người: Từ nay trở đi, người nào liên kết với tiếng kêu đầy yêu thương của Đức Giêsu, hướng về Chúa Cha, người đó đã làm cho Nước Thiên Chúa được thực hiện. Họ cũng làm cho danh Thiên Chúa được hiển thánh khi họ biết trao đổi với Thiên Chúa trong tình yêu. Trong Đức Giêsu, con người được biết Thiên Chúa là Cha của mình, và họ phải đến với Thiên Chúa trong tâm tình của một người con. Trong Đức Giêsu, Đấng nhập thể làm người, nhân loại được gọi Thiên Chúa là Cha, Cha của tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, địa vị hay tội lỗi. Đây là một sự thật mang tính cách mạng.

Một giao ước mới của tình yêu và lòng thương xót: Trong mặc khải này, lề luật của Ít-ra-en được hoàn tất và nảy sinh một giao ước mới: Thiên Chúa trở thành người Cha thân yêu của tất cả mọi người. So với Cựu Ước, lời kinh của Đức Giêsu mở ra một viễn tượng lớn lao, hoàn toàn mới mẻ. Thiên Chúa đến với con người không phải để dò xét, để trừng phạt, nhưng là để đem ơn cứu độ, đem ơn tha thứ và tình yêu thương. Ngài không còn là Đấng xa cách, đáng sợ, mà là Cha nhân lành, luôn mở rộng vòng tay đón đợi con cái trở về.

Tâm tình của người con khi đến với Cha: Ngược lại, con người đến với Thiên Chúa không phải với tâm tình sợ hãi, e dè, cũng không phải là để tìm lợi ích cho riêng cá nhân mình một cách ích kỷ. Mà là hiện diện trước Thiên Chúa với tâm tình của một người con, sẵn sàng trình bày với người Cha tất cả những gì liên quan đến mình, từ những nỗi lo âu nhỏ bé nhất đến những khát khao sâu thẳm nhất. Và hơn thế nữa, con người hiện diện trước Thiên Chúa để tìm hiểu chương trình của Người, sẵn sàng tuân phục và cộng tác để thánh ý của Thiên Chúa được thể hiện. Sự hiện diện như thế vượt lên trên mọi suy tính cá nhân, ích kỷ, để trở thành một sự hiện diện trong quan điểm của lịch sử cứu độ, trong tương quan mật thiết với Thiên Chúa đang muốn cứu độ tất cả mọi người.

Ngày nay, sau hai mươi thế kỷ, vẫn có những người quan niệm Thiên Chúa theo kiểu Cựu Ước, vẫn có những người tìm đến Thiên Chúa mà chỉ mong tìm lợi cho mình. Lời kinh Lạy Cha vẫn được đọc lên nhưng không thấm sâu, không làm thay đổi cái nhìn của con người về Thiên Chúa. Người ta không cảm thấy vinh hạnh, không cảm thấy sung sướng khi mình được gọi Thiên Chúa là Cha, khi mình là con Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha – loài người là con: đó không phải là kiêu ngạo, nhưng là ý nghĩa đích thực và sâu xa nhất của Kitô giáo. Đó là bản chất của mối tương quan mà chúng ta được mời gọi sống.

Sau khi dạy các môn đệ cách gọi Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu tiếp đó nói lên điều cốt yếu của việc cầu nguyện: Người nhấn mạnh những đặc tính hết sức quan trọng là kiên trì và tín thác.

Kiên trì: Nối kết sâu xa với Thiên Chúa và nhận biết sự bất lực của mình: Thiên Chúa biết rõ mọi nhu cầu của con người. Không cần họ phải lên tiếng, Thiên Chúa cũng đã thấu suốt mọi điều họ xin. Vậy tại sao Thiên Chúa lại “để” cho người ta phải cầu nguyện, phải năn nỉ, đôi khi là liên lỉ? Thật ra, dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay về người bạn đến xin bánh lúc nửa đêm (Lc 11,5-8), chỉ là một hình ảnh ẩn dụ. Nó không có ý nói rằng Thiên Chúa là Đấng khó tính, phải bị nài ép mới ban ơn. Mà là việc cầu nguyện liên lỉ nối kết con người với Thiên Chúa cách sâu xa hơn, khiến họ ý thức rõ hơn về sự thiếu thốn, sự bất lực của mình. Khi đó, họ sẵn sàng dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa và sau khi được Thiên Chúa nhận lời, họ nhận biết Người cách rõ ràng hơn, không chỉ qua ơn ban mà còn qua chính quá trình chờ đợi. Bởi đó, việc cầu nguyện liên lỉ, việc chờ đợi không phải là điều đau khổ, nhưng lại là một hồng ân lớn lao, một sự vươn tới Thiên Chúa cách quyết liệt và cũng là một tâm tình đích thực.

Tín thác: Mở lòng đón nhận Chúa hơn là buộc Chúa chiều theo mình: Ngoài ra, Thiên Chúa là Đấng thông suốt, Người cũng biết con người cần gì. Lòng thương xót của Người thật vô biên, nhưng Người lại muốn con người phải hoàn toàn tín thác, trông cậy nơi Người. Tại sao vậy? Thiên Chúa không chỉ đáp ứng những nhu cầu vật chất của con người – trong thực tế, lời cầu nguyện của con người thường chỉ có những điều này. Nếu con người hiện diện trước Thiên Chúa một cách đích thực, nếu mối tương giao của họ với Thiên Chúa không phải để tìm lợi ích cá nhân, thì hẳn việc cầu nguyện chân thành sẽ phải là để cho Thiên Chúa hoạt động, là mở lòng đón nhận Thiên Chúa, hơn là buộc Thiên Chúa phải chiều theo những suy nghĩ, những tính toán tầm thường của mình. Nếu Người có làm thinh như không nghe thấy, chính là để con người đạt tới một điều rất cần thiết, một hồng ân lớn lao mà Đức Giêsu hứa ban, đó là Chúa Thánh Thần. Hồng ân này vượt lên trên cả nhu cầu về bánh ăn cũng như mọi nhu cầu tinh thần khác. Thánh Thần là Đấng sẽ dẫn dắt chúng ta vào mọi chân lý, dạy chúng ta biết cầu nguyện, và ban cho chúng ta sự bình an đích thực.

“Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho” – đây là một lời hứa quen thuộc của Chúa. Nhưng chúng ta cần hiểu rằng, “Hãy xin thì sẽ được” không phải lúc nào cũng như thế theo ý muốn ích kỷ của chúng ta.

Cầu nguyện là huấn luyện con người: Việc cầu nguyện khởi đi từ những nhu cầu cụ thể, nhưng sẽ hướng tới điều bất ngờ, hướng tới sự vô biên của Thiên Chúa. Theo thánh Augustino, “Việc cầu xin không nhằm thông báo cho Thiên Chúa, nhưng là huấn luyện con người.” Khi cầu xin, chúng ta thú nhận sự bất lực của mình và công nhận Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, là Đấng Chí Ái. Một lời cầu xin với Chúa Cha bao hàm hai cuộc hoán cải:

Thứ nhất, hoán cải về mục đích cầu nguyện: Với lời cầu xin cho lợi ích của Nước Thiên Chúa, chúng ta thấy rằng không thể xem xét những điều đó theo quan điểm của mình, theo những lợi ích cá nhân nhỏ bé. Khi cầu xin, tức là để cho thánh ý Thiên Chúa được thể hiện, chứ không phải ý riêng của mình. Đây là sự chuyển dịch từ ý muốn cá nhân sang ý muốn Thiên Chúa.

Thứ hai, hoán cải về khát vọng: Vì ý thức rõ ràng về lời cầu xin của mình với Thiên Chúa, người Kitô hữu khám phá ra một khát vọng nền tảng: gặp gỡ Thiên Chúa tình yêu. Lúc ấy, từ những nhu cầu (cụ thể, vật chất), chúng ta chuyển sang khát vọng (sâu xa, thiêng liêng), một cuộc chuyển dịch dần dần và đau đớn, nhưng cần thiết để chúng ta lớn lên trong tình yêu.

Cầu nguyện là sự tiến tới Thiên Chúa: Hình ảnh mà Denys l’Arépagite đã dùng thật ý nghĩa: “Người cầu xin là người có thái độ của ‘kẻ đứng trên con tàu, nắm chắc sợi dây cột tàu vào bờ. Họ không kéo tảng đá về phía mình, nhưng mình tiến dần tới tảng đá, họ và con tàu.” Điều này diễn tả bản chất của cầu nguyện:

Cầu nguyện, đó không phải là áp đặt ý muốn của mình trên Thiên Chúa, không phải là kéo Thiên Chúa về phía mình để Ngài chiều theo ý mình.

Cầu nguyện, đó không phải là làm Thiên Chúa thay đổi, không phải là thuyết phục Ngài làm điều Ngài không muốn.

Mà cầu nguyện là xin Thiên Chúa cho chúng ta sẵn sàng tuân theo thánh ý, theo kế hoạch cứu độ của Người đối với thế giới.

Cầu nguyện là xin Thiên Chúa thay đổi chúng ta, và biến tâm hồn chúng ta thành tâm hồn của người con, luôn tín thác, luôn khao khát làm đẹp lòng Cha.

Nếu chúng ta kiên trì, chúng ta sẽ được, sẽ tìm thấy và cánh cửa sẽ mở ra. Vì thế, chúng ta không được quyền nản chí. Cầu nguyện, trước hết là kiên trì, một sự kiên trì trong niềm tin và phó thác, chứ không phải là sự lì lợm muốn đạt được ý riêng.

Bài Tin Mừng hôm nay, với lời kinh “Lạy Cha” và giáo huấn của Chúa Giêsu về cầu nguyện, là một lời mời gọi sâu sắc để chúng ta thay đổi quan niệm và thái độ của mình đối với việc cầu nguyện. Cầu nguyện không chỉ là một nghi thức hay một loạt những lời cầu xin. Cầu nguyện là một mối tương giao, một tình trạng của linh hồn, một sự kết nối thân mật với Thiên Chúa, Đấng là Abba Cha yêu thương của chúng ta.

Chúng ta được mời gọi:

Sống với tâm tình của người con: Đến với Thiên Chúa không phải với sự sợ hãi hay toan tính, mà với tâm tình đơn sơ, tín thác của một người con yêu mến Cha.

Kiên trì trong cầu nguyện: Không nản chí khi lời cầu xin chưa được nhậm lời theo ý mình, mà kiên trì trong sự phó thác, tin tưởng vào sự khôn ngoan và tình yêu của Thiên Chúa.

Để Thiên Chúa biến đổi: Cầu nguyện để Thiên Chúa hoạt động trong chúng ta, để Ngài thay đổi tâm hồn chúng ta thành tâm hồn của người con, luôn sẵn sàng tuân theo thánh ý Ngài.

Khát vọng Thánh Thần: Trên hết mọi nhu cầu, hãy khao khát hồng ân Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ dạy chúng ta cách cầu nguyện, cách yêu mến Chúa, và dẫn dắt chúng ta vào mọi chân lý.

Ước gì mỗi lần chúng ta đọc kinh “Lạy Cha”, hay mỗi lần chúng ta cầu nguyện, đó không chỉ là những lời nói trên môi, mà là một lời kinh đầy tâm tình, một sự hiệp thông sâu sắc với Abba Cha. Xin cho chúng ta luôn sống trong mối tương giao mật thiết này, để cuộc đời chúng ta trở thành một lời kinh không ngừng ca ngợi tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa, và để chúng ta được trọn vẹn trong sự hiện diện của Ngài mãi mãi. Amen.

 

Lm. Anmai, CSsR

 

 

THƯA CHUYỆN VỚI THIÊN CHÚA LÀ CHA GIÀU LÒNG XÓT THƯƠNG: TỪ QUAN HỆ ĐẾN KINH NGHIỆM CON CÁI

Bài Tin Mừng hôm nay, trích từ sách Luca, chương 11, từ câu 1 đến câu 13, bắt đầu bằng một câu hỏi đầy khao khát từ một người môn đệ: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông.” Câu đề nghị này, thoạt nghe, có vẻ đơn giản, nhưng lại chạm đến một trong những vấn đề cốt lõi nhất của đời sống đức tin. Đây không chỉ là một câu hỏi của các môn đệ xưa, mà có lẽ cũng là câu đề nghị mà mỗi người trong chúng ta, những Kitô hữu hôm nay, cũng đang thầm hỏi trong cuộc sống đức tin của mình.

Để trả lời câu hỏi này, trước hết, có lẽ mỗi chúng ta cần tự hỏi lòng mình: Chúng ta tương quan với Thiên Chúa như thế nào? Bởi vì, chính đời sống tương quan mật thiết của mỗi người với Chúa sẽ quyết định thái độ và nội dung của lời cầu nguyện.

Nếu chúng ta sống với Thiên Chúa như một ông chủ quyền uy, chúng ta có nhiều khả năng cầu nguyện trong tư cách là tôi tớ, với sự sợ hãi và chỉ biết vâng lệnh.

Nếu chúng ta tương quan với Chúa như Đấng ban phát ơn huệ, những lời cầu nguyện của chúng ta nhiều khả năng chỉ là những lời xin ơn về lợi lộc trần thế, những mong muốn cá nhân.

Nhưng nếu chúng ta sống yêu mến Thiên Chúa là Đấng nhân lành, Đấng ban ơn cứu độ, Đấng là nguồn mạch của tình yêu thương vô bờ bến, thì chúng ta dễ dàng biểu lộ tâm tình cầu nguyện trong tư cách là người con hiếu thảo, đầy tin tưởng và phó thác.

Thiên Chúa không ngừng mời gọi chúng ta đi vào mối tương quan sâu sắc hơn với Người. Người muốn chúng ta không chỉ là tôi tớ, không chỉ là người xin ơn, mà là những người con thân yêu của Người.

Để hiểu rõ hơn về mối tương quan thân tình này, chúng ta hãy cùng nhìn vào hình ảnh của Tổ phụ Apraham trong sách Sáng Thế. Apraham là một người đã sống thân tình, gắn bó mật thiết với Thiên Chúa. Nhờ đời sống gắn bó ấy, lời cầu nguyện của ông dâng lên Chúa toát ra từ một đời sống đầy tin tưởng và thân tình. Ông đã tin tưởng tuyệt đối rằng Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót và hằng lắng nghe lời ông khẩn cầu.

Điển hình là câu chuyện khi Apraham biết được ý định của Thiên Chúa sắp phá hủy thành Sôđôma và Gômôra, nơi có gia đình người cháu là ông Lót đang sinh sống. Thay vì chấp nhận số phận, Ápraham đã mạnh dạn kêu xin Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Ông tin rằng Thiên Chúa công chính sẽ không tiêu diệt người tội lỗi cùng với người công chính. Vì thế, ông đã mượn sự hiện diện của những người công chính để xin Thiên Chúa tha thứ cho những người tội lỗi cùng sống trong thành Sôđôma và Gômôra.

Apraham bắt đầu xin từ 50 người công chính hiện diện trong thành. Và sau 5 lần kèo nài đầy kiên nhẫn và táo bạo, ông đã xin Thiên Chúa tha thứ cho thành chỉ với 10 người công chính. Sự kèo nài của Apraham, như một cuộc trả giá trong buôn bán, không hề mang tính thiếu tôn kính hay đòi hỏi. Ngược lại, nó đã cho thấy một điều: ông rất gần gũi và thân thiết với Thiên Chúa, cách riêng, ông rất bền bỉ và kiên nhẫn trong lời cầu nguyện. Những lần ông xin bớt, Thiên Chúa, Đấng là Cha giàu lòng thương xót, đã nhận lời ông. Điều này không phải vì Thiên Chúa cần số người công chính để tha thứ, mà vì Người muốn mặc khải lòng thương xót vô biên của mình qua sự kiên trì và niềm tin của Apraham.

Như thế, Apraham đã sống thân tình trước mắt Thiên Chúa. Lời cầu nguyện của ông dâng lên Thiên Chúa như là một cuộc trò chuyện đầy cởi mở và thân thiện giữa hai người bạn thân, nhưng vẫn giữ được sự tôn kính tuyệt đối đối với Thiên Chúa là Đấng Tối Cao. Mối tương quan này chính là nền tảng cho mọi lời cầu nguyện chân thành.

Bài Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay đã không chỉ trả lời câu hỏi “Xin dạy chúng con cầu nguyện” bằng một công thức, mà còn bằng một tương quan mới, một tương quan sâu sắc hơn: tương quan giữa Thiên Chúa là Cha và chúng ta là những người con của Ngài.

Chúa Giêsu đã đến để mặc khải cho chúng ta rằng Thiên Chúa không phải là một ông chủ xa vời, một vị quan tòa nghiêm khắc, hay một đấng ban phát ơn sủng một cách máy móc. Người là Cha. Nhờ Chúa Giêsu Kitô và tác động của Chúa Thánh Thần, mỗi Kitô hữu có thể kêu Thiên Chúa là Abba, nghĩa là “cha ơi!”. Tiếng xưng hô: cha ơi, thật đẹp làm sao! Nó không chỉ là một danh xưng, mà là một tiếng gọi thân tình nhất, một tiếng kêu phát xuất từ trái tim của người con nhỏ bé hoàn toàn tin tưởng và phó thác vào tình yêu của cha mình. Những lời thân thưa trong kinh Lạy Cha mà Chúa Giêsu đã dạy lại càng ý nhị và thân tình biết mấy, khi chúng ta suy niệm về từng lời, từng câu trong đó.

Trong tâm tình con cái yêu mến cha mình, người con không xin những gì ngoài ý muốn của cha mình, nhưng luôn thao thức nên một với Cha và làm đẹp lòng Cha. Mọi sự Cha muốn, người con cũng ao ước; mọi sự Cha cần, người con cũng ước ao nên trọn. Vì thế, Lời nguyện đầu tiên của Người con ngoan trong kinh Lạy Cha là xin cho danh Cha cả sáng, xin mọi người đều tin nhận và suy phục Cha mình, và xin cho Nước Cha trị đến. Đây là lời cầu nguyện cho ý Chúa được thể hiện dưới đất cũng như trên trời, một lời cầu nguyện vị tha, đặt vinh quang Thiên Chúa lên trên hết mọi sự.

Cuộc sống của người con ở trần gian này là cuộc lữ hành đi về với Thiên Chúa là Cha. Vì thế, người con không tìm vinh danh trần thế này, cũng chẳng mong tích lũy của cải chóng qua, nhưng là tìm vinh danh Chúa và hạnh phúc Nước Trời. Người con không xin sang giàu, cũng chẳng ước ao chức tước trần thế, bởi vì những điều đó chỉ là phù du. Thay vào đó, người con chỉ xin đủ lương thực hằng ngày để có thể chu toàn bổn phận là con cái của Thiên Chúa, đủ sức khỏe và ân sủng để tiếp tục cuộc hành trình đức tin. Đó là sự phó thác hoàn toàn vào sự quan phòng của Cha.

Khi cùng nhau tuyên xưng Thiên Chúa là Cha, người con cũng nhận ra một sự thật quan trọng khác: mọi người đều là anh em với nhau. Vì thế, người con khao khát sống hòa thuận với mọi người. Muốn thế, người con xin với Thiên Chúa cho mình biết thứ tha và thông cảm cho nhiều người khác để có thể sống yêu thương hết mọi người, không phân biệt, không oán giận. Người con biết rằng mình không thể nhận được ơn tha thứ từ Thiên Chúa là Cha nhân lành nếu mình không có khả năng tha thứ cho tha nhân. Đây là một đòi hỏi cốt lõi của tình con thảo và tình huynh đệ.

Cuối cùng, hạnh phúc của người con là luôn sống thân tình với Cha mình. Muốn thế, người con không chỉ dựa vào cố gắng của bản thân mà còn rất cần sự trợ lực của Thiên Chúa là Cha. Vì thế, người con xin với Cha gìn giữ để khỏi sa vào chước độc của ma quỷ, khỏi những cám dỗ và sự dữ của thế gian. Có thế, hoàn tất cuộc đời này, người con mới tràn trề hy vọng sẽ được người Cha là Thiên Chúa cho hưởng gia nghiệp, gia tài của những người con hiếu thảo trong Nước Trời. Đây là lời cầu nguyện cho sự kiên trì và bền đỗ trong ân sủng.

Mối tương quan với Thiên Chúa không phải là một lý thuyết trừu tượng hay một công thức khô khan. Đó là một kinh nghiệm sống động, một sự trưởng thành không ngừng trong tình yêu và sự hiểu biết về Thiên Chúa là Cha.

Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn: Khi chúng ta nhìn Thiên Chúa như Cha, lời cầu nguyện không còn là một nghĩa vụ hay một danh sách xin xỏ. Nó trở thành hơi thở của linh hồn, một cuộc trò chuyện tự nhiên, thân mật. Giống như một đứa con tâm sự với cha mình về mọi niềm vui, nỗi buồn, mọi ước mơ và thử thách, chúng ta cũng có thể thưa chuyện với Thiên Chúa là Cha như vậy. Mối tương quan thân tình này giải phóng chúng ta khỏi sự lo lắng, sợ hãi, và cho chúng ta niềm bình an thực sự.

Tin tưởng vào lòng xót thương: Kinh nghiệm của Apraham dạy chúng ta sự bền bỉ và kiên nhẫn trong lời cầu nguyện, và trên hết là sự tin tưởng tuyệt đối vào lòng xót thương vô biên của Thiên Chúa. Người là Cha luôn lắng nghe và luôn muốn điều tốt nhất cho con cái mình. Ngay cả khi lời cầu nguyện của chúng ta dường như không được nhậm lời theo ý mình, chúng ta vẫn tin tưởng rằng Chúa có một kế hoạch tốt đẹp hơn, và Ngài sẽ hành động theo cách tốt nhất cho ơn cứu độ của chúng ta.

Sống trong ý Chúa: Người con hiếu thảo không tìm kiếm ý riêng, nhưng luôn thao thức muốn làm đẹp lòng Cha. Điều này đòi hỏi sự từ bỏ cái tôi ích kỷ, sự sẵn sàng vâng phục Thánh ý Chúa, ngay cả khi ý Chúa không trùng với ý mình. Khi chúng ta sống trong ý Chúa, mọi việc chúng ta làm đều trở nên có ý nghĩa, mọi thử thách đều trở thành cơ hội để lớn lên trong ân sủng.

Hôm nay, qua Lời Chúa, chúng ta được mời gọi đi sâu hơn vào mối tương quan với Thiên Chúa. Không phải là một mối tương quan hời hợt, dựa trên những nghi lễ hay những lời xin xỏ, mà là một mối tương quan thân tình sâu sắc của người con với Cha giàu lòng xót thương.

Ước mong, Lời Chúa hôm nay, giúp chúng ta luôn sống tâm tình của người con hiếu thảo. Để mọi lời cầu nguyện chúng ta dâng lên Chúa không chỉ là những lời xin ơn, mà là bao tiếng thân thương của người con hiếu thảo dâng lên cha mình: Abba, cha ơi!

Hãy để tiếng gọi ấy vang vọng trong tâm hồn chúng ta mỗi ngày, trong mọi khoảnh khắc vui buồn, thành công hay thất bại. Hãy sống như những người con thực sự của Thiên Chúa, không ngừng tìm kiếm ý Cha, không ngừng lớn lên trong tình yêu thương và sự phó thác.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa muốn dẫn con đến với Chúa Cha, muốn cho con được sự sống thân mật trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chỉ có Chúa mới biết rõ Chúa Cha, và Chúa đã mặc khải Cha cho chúng con. Còn con chỉ biết bước theo Chúa, chỉ biết nghe theo lời Chúa dạy. Xin Chúa giúp con trút bỏ đi những ý nghĩ riêng tư của mình, những gánh nặng của cái tôi, để có thể lắng nghe lời Chúa dạy bảo với một tâm hồn khiêm cung đích thực.

Chúa kêu mời con tìm về Lời Chúa trong Thánh Kinh, để nhờ Lời Chúa, con có thể đến với Chúa, nhờ Lời Chúa con hiểu biết Chúa ngày một hơn. Xin Chúa ban cho con một tâm hồn biết lắng nghe Lời Chúa và đón nhận chân lý của Chúa. Con cám ơn Chúa vì niềm hạnh phúc lớn lao Chúa ban cho con. Được biết Chúa và theo Chúa, được sống trong Chúa và sống với Chúa, được ngụp lặn trong tình yêu Ba Ngôi, đó là hồng ân cao cả nhất đời con. Xin Chúa giúp con cảm nhận được niềm vui ấy trong suốt cuộc đời, để con luôn sống xứng đáng là người con thân yêu của Cha. Amen.

 

Lm. Anmai, CSsR

 

 

KIÊN TRÌ TRONG LỜI CẦU: MỐI TƯƠNG QUAN CON THẢO VỚI THIÊN CHÚA

Trong cuộc sống bận rộn và đầy biến động này, chúng ta thường tìm kiếm sự bình an, niềm hy vọng và sức mạnh để vượt qua những thử thách. Ai trong chúng ta cũng ít nhất một lần cầu nguyện, khi vui, khi buồn, khi đối mặt với khó khăn hay khi muốn tạ ơn. Cầu nguyện dường như là một hành vi tự nhiên của con người, một tiếng thở dài, một lời thì thầm gửi gắm những tâm tư sâu kín nhất.

Thế nhưng, cầu nguyện có phải chỉ là những lời thỉnh cầu khi cần, hay một thói quen đơn thuần? Lời Chúa hôm nay, qua Tin Mừng theo Thánh Luca, mời gọi chúng ta đào sâu hơn vào ý nghĩa và tầm quan trọng của việc cầu nguyện. Chúa Giêsu, Đấng đã sống một đời sống cầu nguyện liên lỉ, đã không ngừng dạy dỗ các tông đồ và những người theo Ngài về tâm tình và cách thức cầu nguyện.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta phải biết cầu nguyện kiên trì, vì cầu nguyện là cách chúng ta duy trì mối tương quan Cha – con giữa Thiên Chúa với ta. Ngài không muốn đưa ra một công thức cầu nguyện nhất thời, những lời kinh rập khuôn chỉ đọc một lần rồi thôi, mà là cả một đời sống cầu nguyện. Dường như thánh sử Luca đã nhận ra điều ấy, nên ngài không kể ra một cách công thức như thế mà chú ý nhiều hơn đến tâm tình cầu nguyện của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cầu nguyện trong tâm tình của một người Con thưa với Cha yêu dấu. Ngài đã giữ mãi tâm tình này trong suốt hành trình rao giảng Tin Mừng cho đến khi chịu treo trên thánh giá: “Cha ơi! Sao Cha bỏ Con! Nhưng đừng xin theo ý Con như xin cho ý Cha thành sự.” (Mt 26, 39; Lc 22, 42).

Ngoài tâm tình của một Người Con khi cầu nguyện, Chúa Giêsu còn nhắn nhủ thêm những tâm tình cần phải có bằng hai dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay. Hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau suy gẫm về tầm quan trọng của sự kiên trì trong cầu nguyện, về ý nghĩa của sự tín thác tuyệt đối vào Chúa Cha, và làm thế nào để chúng ta có thể nhận ra “ơn tốt lành nhất” mà Thiên Chúa ban.

Chúa Giêsu đã không ngừng cầu nguyện trên đường lên Giêrusalem, và các tông đồ đã chứng kiến tâm tình và cách thức cầu nguyện liên lỉ của Ngài. Ngài không chỉ dạy bằng lời, mà còn bằng chính gương sáng đời mình.

Chúa Giêsu cầu nguyện trong tâm tình của một người Con thưa với Cha yêu dấu. Đây là điểm cốt lõi của đời sống cầu nguyện Kitô hữu. Cầu nguyện không phải là một nghĩa vụ nặng nề, một sự trao đổi để được ban ơn, mà là một cuộc đối thoại thân mật, một sự kết nối sâu sắc giữa người con với cha mình. Mối tương quan Cha – con là nền tảng của mọi lời cầu nguyện chân thật.

Ngài đã giữ mãi tâm tình này trong suốt hành trình rao giảng Tin Mừng cho đến khi chịu treo trên thánh giá: “Cha ơi! Sao Cha bỏ Con! Nhưng đừng xin theo ý Con như xin cho ý Cha thành sự.” Đây là lời cầu nguyện cao cả nhất của Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu. Trong tận cùng đau khổ và sợ hãi cái chết, Ngài vẫn xưng Cha, vẫn thể hiện sự tín thác tuyệt đối vào ý muốn của Cha. Ngài cầu xin cho ý Cha được thực hiện, chứ không phải ý riêng của mình. Điều này dạy chúng ta rằng, cầu nguyện đích thực là sự vâng phục, là sự phó thác ý muốn riêng vào ý muốn của Thiên Chúa, dù điều đó có thể khó khăn hay đau khổ.

Với dụ ngôn người bạn xin bánh nửa đêm, Chúa muốn nhắc chúng ta lưu tâm đến lòng kiên trì cầu nguyện. Dụ ngôn kể về người bạn đến xin bánh vào nửa đêm, bị từ chối ban đầu nhưng vẫn kiên trì gõ cửa cho đến khi được nhận lời. Điều này không phải vì người chủ nhà khó tính, mà là để nhấn mạnh sự kiên trì của người cầu xin.

Chúa muốn chúng ta lưu tâm hơn đến tâm tình cầu nguyện liên lỉ trong đời, chứ không chỉ chú trọng đến công thức cầu nguyện cho một thời điểm. Hãy ở trong tâm tình cầu nguyện nghĩa là luôn gắn bó với Chúa, luôn thưa lên với Chúa mọi nơi mọi lúc. Cầu nguyện không chỉ là những khoảnh khắc chúng ta quỳ gối, mà là một thái độ sống, một sự nhận thức thường xuyên về sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi công việc, mọi suy nghĩ, mọi cảm xúc của chúng ta. Luôn gắn bó với Chúa, thưa lên với Ngài mọi niềm vui, nỗi buồn, lo âu, và khát vọng, dù là lớn hay nhỏ.

Chẳng phải đến lúc chúng ta thưa lên những nhu cầu của mình thì Chúa mới biết nhưng Người đã biết trước khi chúng ta cầu xin. Đây là một chân lý nền tảng. Thiên Chúa là Đấng toàn tri, Ngài biết rõ mọi thứ, biết mọi nhu cầu, mọi ước muốn sâu thẳm nhất trong trái tim chúng ta, ngay cả trước khi chúng ta cất lời. Vậy tại sao Ngài vẫn muốn chúng ta cầu xin?

Lý do là vì Ngài muốn chúng ta tin tưởng và phó thác. Hành vi cầu nguyện không phải là để thông báo cho Chúa về nhu cầu của chúng ta, mà là để củng cố mối tương quan của chúng ta với Ngài, để thể hiện lòng tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng và lòng nhân lành của Ngài. Khi chúng ta kiên trì cầu nguyện, chúng ta đang rèn luyện đức tin, đang học cách tin tưởng rằng Chúa luôn lắng nghe và sẽ đáp lời theo cách tốt nhất cho chúng ta, theo thời gian của Ngài.

Nếu không kiên trì thì thái độ nhẹ dạ sẽ đưa chúng ta đến việc van xin hết ông bụt này đến bà thần kia. Chúng ta sẽ đi lang thang khắp cùng trời cuối đất để mong được thỏa mãn những nhu cầu của mình. Đây là một thực tế đáng buồn trong cuộc sống. Khi thiếu niềm tin vững chắc vào Thiên Chúa, con người dễ dàng rơi vào mê tín dị đoan, tìm kiếm sự giúp đỡ từ những thế lực ma quỷ, hoặc chạy theo những giải pháp tạm bợ, hời hợt của thế gian.

Họ tìm đến những lời hứa hão huyền, những phép màu phi thực tế, những lá bùa may mắn, hoặc những con đường tắt đầy nguy hiểm. Sự nhẹ dạ, thiếu kiên trì trong cầu nguyện khiến chúng ta không nhận ra nguồn mạch ơn phúc đích thực là Thiên Chúa, và rồi lạc lối trong cuộc hành trình tâm linh. Chúng ta trở thành những người lang thang, tìm kiếm niềm an ủi và giải thoát ở khắp mọi nơi, trừ nơi duy nhất có thể ban cho chúng ta điều đó.

Thiên Chúa không làm ngơ trước những nhu cầu của chúng ta, Ngài nhạy cảm trước những gì chúng ta đang thiếu thốn. Vấn đề là chúng ta hãy kiên trì trong cầu nguyện. Hãy biết kiên trì gõ cửa giữa đêm khuya như người bạn xin bánh để học được tính lệ thuộc vào Thiên Chúa. Cầu nguyện kiên trì giúp chúng ta nhận ra rằng chúng ta không thể tự mình làm được mọi sự, rằng chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào ân sủng và lòng thương xót của Thiên Chúa.

Chính trong sự lệ thuộc này mà chúng ta tìm thấy sức mạnh đích thực. Bàn tay yêu thương của Ngài sẽ ban phát cho chúng ta những ơn lành mà chúng ta cần đến. Thiên Chúa không ban theo ý muốn của chúng ta một cách máy móc, nhưng Ngài ban những gì thực sự tốt lành và cần thiết cho ơn cứu độ của chúng ta.

Đôi lúc trong cuộc đời, chúng ta cũng đã kêu trách vì những lời cầu xin của mình không được như ý. Đây là một cảm xúc rất con người. Chúng ta cầu nguyện sốt sắng, chúng ta kiên trì, nhưng rồi kết quả lại không như mong đợi. Điều này dễ dẫn đến sự thất vọng, chán nản, và thậm chí là nghi ngờ lòng tốt của Thiên Chúa.

Nhưng bài Tin Mừng hôm nay còn là lời động viên cho chúng ta đừng tuyệt vọng. Hãy kiên trì trong cầu nguyện. Chúa Giêsu hiểu những cảm xúc đó của chúng ta. Ngài biết rằng đôi khi, ý muốn của chúng ta khác với ý muốn của Chúa, và sự thiếu hiểu biết của chúng ta về kế hoạch của Ngài có thể dẫn đến sự thất vọng.

Hãy xin Chúa cho chúng ta nhận ra thánh ý Chúa trong từng biến cố của cuộc sống. Điều quan trọng không phải là Chúa làm theo ý chúng ta, mà là chúng ta nhận ra và chấp nhận ý Chúa trong mọi hoàn cảnh. Có kiên trì trong cầu nguyện chúng ta mới nhận ra lòng nhân lành của Chúa. Lời cầu nguyện không chỉ là để xin, mà còn là để lắng nghe, để phân định, để nhận ra bàn tay quan phòng của Thiên Chúa đang hoạt động trong mọi sự.

Như Chúa đã nói trong dụ ngôn thứ hai của bài Tin Mừng hôm nay: Không có người cha nào có con xin bánh mà lại cho hòn đá, xin cá lại cho con rắn. Dụ ngôn này nhấn mạnh lòng tốt lành vô biên của Thiên Chúa Cha. Nếu một người cha trần thế, dù có yếu đuối và giới hạn, vẫn biết ban những điều tốt lành cho con cái mình, thì Thiên Chúa Cha, Đấng hoàn hảo trong tình yêu và sự khôn ngoan, sẽ còn ban những điều tốt lành hơn biết bao!

Cũng vậy, Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta những ơn tốt lành nhất từ kho tàng tình thương của ngài. “Ơn tốt lành nhất” mà Thiên Chúa ban có thể không phải là điều chúng ta xin, nhưng chắc chắn đó là điều chúng ta thực sự cần cho ơn cứu độ và sự phát triển thiêng liêng của mình. Có thể đó là sự kiên nhẫn, sự bình an nội tâm, lòng can đảm để đối diện với thử thách, hay sự khôn ngoan để chấp nhận những gì mình không thể thay đổi. Đó chính là Thánh Thần, là Đấng bảo trợ, Đấng hướng dẫn chúng ta.

Ước gì chúng ta cũng hãy kiên trì cầu nguyện để nhận ra sự tốt lành đến từ nơi Thiên Chúa. Lời cầu nguyện kiên trì sẽ mở mắt chúng ta, giúp chúng ta nhìn thấy bàn tay yêu thương của Chúa trong mọi sự, ngay cả trong những điều mà ban đầu chúng ta coi là thất bại hay không như ý.

Lời Chúa hôm nay là một lời mời gọi sâu sắc để chúng ta biến cầu nguyện không chỉ là một hành vi, mà là một lối sống. Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn, là cách chúng ta duy trì mối tương quan Cha – con với Thiên Chúa.

Hãy xin Chúa ban cho chúng ta ân sủng để luôn ở trong tâm tình cầu nguyện, để luôn gắn bó với Chúa mọi nơi mọi lúc. Xin cho chúng ta có lòng kiên trì trong cầu nguyện, không nản lòng khi lời xin chưa được như ý, mà tin tưởng rằng Thiên Chúa luôn lắng nghe và sẽ ban cho chúng ta những ơn tốt lành nhất.

Ước gì mỗi hơi thở, mỗi bước chân của chúng ta đều là một lời cầu nguyện, một sự biểu lộ lòng tín thác vào Chúa, để chúng ta luôn nhận ra sự tốt lành đến từ nơi Ngài, và để cuộc đời chúng ta trở thành một bằng chứng sống động cho quyền năng và tình yêu thương của Thiên Chúa. Amen.

 

  1. ANMAI, CSSR

 

 

LỜI KINH TUYỆT DIỆU CỦA MUÔN THẾ HỆ: CẦU NGUYỆN TRONG THẦN KHÍ CON THẢO

Trong cuộc sống này, chúng ta không ngừng thiết lập các mối liên hệ đa dạng: nào là mối liên hệ anh em, bạn bè, đồng nghiệp, cha mẹ, vợ chồng, con cái… Từ những mối liên hệ đó, nảy sinh các mối tương quan như thỉnh nguyện, kêu cầu, đơn xin, nguyện vọng. Đây là những mối liên hệ tự nhiên, gắn liền với bản chất xã hội của con người. Tuy nhiên, ngoài các mối liên hệ thông thường đó, nơi các tôn giáo và đặc biệt là trong đời sống tâm linh Kitô giáo, chúng ta còn có những mối liên hệ và tương quan với Đấng Siêu Việt, với Thiên Chúa. Vì thế, với người tín hữu Kitô, cầu nguyện với Thiên Chúa là điều không thể thiếu trong đời sống đức tin của mỗi người.

Cầu nguyện không chỉ là một hành vi tôn giáo, mà là nhịp thở của linh hồn, là cầu nối giữa con người hữu hạn và Thiên Chúa vô hạn. Nhưng cầu nguyện như thế nào cho đúng, cho đẹp lòng Chúa? Câu chuyện về nhà thần bí Hồi giáo Farid và hoàng đế Akbar đã cho chúng ta một gợi ý quan trọng: cầu nguyện không chỉ là cầu xin, không phải là bảng liệt kê ước muốn, mà cầu nguyện chính là tôn thờ, thống hối, cảm tạ và xin ơn. Chính trong bài Tin Mừng hôm nay (Lc 11,1-13), Đức Giêsu đã dạy chúng ta một lời kinh làm khuôn mẫu cho mọi lời cầu nguyện: Kinh Lạy Cha.

Với người Công Giáo, tâm tình cầu nguyện khởi đi từ chính mẫu gương của Đức Giêsu khi Ngài thường xuyên cầu nguyện với Thiên Chúa Cha. Không những thế, Ngài còn chủ động dạy cho các môn đệ của mình cầu nguyện khi một người trong số họ lên tiếng ngỏ lời: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông.” Đây là một khao khát chân thành, cho thấy các môn đệ nhận ra điều đặc biệt trong mối tương quan cầu nguyện của Thầy Giêsu.

Khi được môn sinh bày tỏ ước nguyện, Đức Giêsu đã hướng dẫn các ông cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha.

Qua kinh nguyện này, trước tiên, Đức Giêsu đã giúp cho các môn đệ đi vào mối liên hệ thân tình Cha – con với Thiên Chúa Cha, bắt đầu bằng lời xưng hô: “Lạy Cha chúng con ở trên trời.” Đây chính là lời nguyện mà chính Đức Giêsu đã thường xuyên thưa lên với Cha Ngài (ví dụ: Ga 17,25; Mt 26,39). Ngài muốn cho các môn đệ, và mỗi người chúng ta, có được tâm tình ấy như chính Ngài với Thiên Chúa.

Đây là một hồng ân đặc biệt mà chỉ nơi Kitô Giáo mới có. Các tôn giáo khác có thể gọi Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa, Đấng Tối Cao, nhưng được gọi Ngài là Cha, và được nhìn nhận là con cái nghĩa tử của Người, là một đặc ân dành cho những ai tin vào Đức Kitô. Mối tương quan Cha – con này là nền tảng cho mọi lời cầu nguyện, biến lời cầu nguyện thành cuộc đối thoại mật thiết, đầy tin cậy và yêu thương.

Khi đã đi vào mối tương quan Cha – con với Thiên Chúa, Đức Giêsu muốn dẫn các môn đệ đến thái độ tôn vinh Thiên Chúa trước hết mọi sự. Ngài dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển” và “Triều đại Cha mau đến.” (Lc 11,2).

Thật ra, Danh Thiên Chúa mãi mãi rạng ngời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận, không cần đến lời tôn vinh của chúng ta thì những điều đó mới được hiện diện và tồn tại. Không! Nhưng khi chúng ta tôn vinh Thiên Chúa như thế, một lần nữa nói lên sự kết hiệp sâu xa giữa ta với Thiên Chúa. Nó thể hiện lòng khao khát của chúng ta muốn cho mọi người nhận biết Thiên Chúa, muốn cho ý Ngài được thực hiện trên khắp thế gian. Từ sự kết hiệp này, nảy sinh ơn cứu chuộc nhờ được thánh hóa trong Danh Cha, và chúng ta được trở thành những người cộng tác vào việc xây dựng Nước Chúa.

Tiếp theo, Đức Giêsu hướng các môn đệ đến những nhu cầu của chính mình, nhưng vẫn trong tinh thần phó thác và tin tưởng.

Nhu cầu vật chất và thiêng liêng hằng ngày: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày.” (Lc 11,3). Đây chính là nhu cầu thiết thực, gắn liền với đời sống thường nhật của con người. Lời nguyện này không chỉ xin cơm bánh vật chất, mà còn xin “Bánh Hằng Sống” là Lời Chúa và Bí tích Thánh Thể, nuôi dưỡng đời sống tâm linh. Lời nguyện này muốn bày tỏ tâm tình phó thác nơi Thiên Chúa là Đấng An Bài và Quan Phòng cho con cái của Người. Vì thế, đây là lời nguyện vừa mang tính thiết thực, vừa mang tâm tình cậy trông.

Nhu cầu tha thứ và hòa giải: Kế đến là lời nguyện xin tha thứ: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con.” (Lc 11,4). Lời nguyện này nhắc cho người môn đệ biết rằng: mang trong mình thân phận yếu đuối của kiếp người, nên không ai là người không có những sai phạm với Chúa và với nhau. Vì thế, xin ơn tha tội là điều không thể thiếu trong tâm tình cầu nguyện. Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể được Thiên Chúa thương xót và tha thứ khi chính ta cũng phải rộng lòng xót thương và tha thứ cho anh chị em đã xúc phạm đến mình. Bởi vì: nếu chúng ta không tha thứ cho nhau, thì Thiên Chúa cũng không tha thứ cho chúng ta (Mt 6,15).

Nhu cầu được gìn giữ khỏi cám dỗ: Cuối cùng, lời kinh hướng các môn đệ ý thức sự giới hạn của bản thân: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.” (Lc 11,4). Con người thường hướng chiều về tội lỗi hơn là điều thiện. Hơn nữa, trước những bẫy cám dỗ đầy hấp dẫn và bắt mắt, khiến con người chẳng khác gì con thiêu thân lao mình vào đống lửa. Trước dịp tội và cám dỗ, người môn đệ cần phải có ơn Chúa trợ giúp thì mới có thể chiến đấu và chiến thắng được ba thù (thế gian, xác thịt, ma quỷ).

Như thế, có thể nói, Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời, vì đã đặt sự cao trọng, vinh danh, và thánh ý Chúa trên hết; sau đó mới xin cho các nhu cầu của chúng ta, nên rất được Chúa Cha ưa thích. Chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha, còn chúng ta là con cái của Người; chúng ta xin Cha ban ơn không những phần xác mà cả phần hồn; chúng ta xin Cha không chỉ tha tội trong quá khứ mà còn gìn giữ cho khỏi cám dỗ ở tương lai, nên chắc chắn sẽ được Chúa Cha đón nhận.

Sau khi đã dạy chúng ta lời kinh tuyệt vời đó, Đức Giêsu còn khuyên chúng ta hãy kiên nhẫn và trông cậy mà cầu nguyện. Tuy nhiên, thực trạng đời sống cầu nguyện nơi chúng ta ngày nay thường gặp phải nhiều vấn đề đáng suy nghĩ.

Trong đời sống đạo của chúng ta, nhiều người đã bỏ cầu nguyện, hay cầu nguyện chẳng khác gì cái máy, đọc kinh một cách máy móc, vô hồn, không có tâm tình. Hoặc tệ hơn, cầu nguyện là trao phó mọi sự nơi Chúa theo kiểu đào nhiệm, tức là không làm gì cả mà chỉ chờ Chúa lo liệu mọi sự. Trong khi đó, tâm hồn chúng ta không có tâm tình chi cả: không tôn thờ, không thống hối, không cảm tạ, và thậm chí lời xin cũng thiếu sự chân thành.

Vì thế, không lạ gì khi thấy nhiều người, và có thể chính chúng ta, mỗi khi cầu nguyện là kể ra một dãy dài dằng dặc những nhu cầu của bản thân mà không hề tôn thờ, tạ ơn cũng như hướng tha. Hay nhiều khi chúng ta lại quá tập trung vào nhu cầu thể xác (sức khỏe, tiền bạc, công việc) mà quên mất nhu cầu tâm linh (ơn biến đổi, ơn tha thứ, ơn vượt thắng cám dỗ).

Lại có những lúc chúng ta cầu nguyện theo kiểu mì ăn liền, tức là: mong sao Chúa phải là người đáp ứng theo lời nguyện xin càng nhanh càng tốt, càng đúng ý mình càng hay. Khi không thấy kết quả như mong muốn, chúng ta dễ nản lòng, thất vọng, thậm chí nghi ngờ tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa.

Cầu nguyện như thế, vô hình trung, chúng ta biến Thiên Chúa trở thành đối tượng chỉ để đáp ứng nhu cầu của mình, một “ông thần” phải phục vụ chúng ta, mà không hề nghĩ đến chuyện kết hợp nên một với Người để trở nên giống Người. Đây là một sự sai lạc căn bản về mục đích của cầu nguyện. Cầu nguyện không phải là để Thiên Chúa làm theo ý chúng ta, mà là để chúng ta làm theo ý Thiên Chúa.

Một tâm tình phù hợp với đức tin, ấy là: khi cầu nguyện, không có nghĩa chỉ là xin ơn và cũng chẳng có nghĩa thuần túy là liệt kê những ước muốn, những kỳ vọng, những điều mà mình muốn xin. Nhưng cầu nguyện trước hết là tâm tình tôn thờ, thống hối, tạ ơn rồi mới đến xin ơn.

Sau khi dạy Kinh Lạy Cha, Đức Giêsu tiếp tục dùng dụ ngôn và lời khuyên để củng cố thái độ kiên nhẫn và trông cậy trong cầu nguyện:

Chính vì thế, Đức Giêsu đã đưa ra dụ ngôn: “Người bạn bị quấy rầy” (Lc 11,5-8) và trưng ra hình ảnh chai lỳ của người làm phiền trong đêm. Dù là ông chủ khó tính cỡ nào, bị quấy rầy giữa đêm khuya, cuối cùng cũng phải mủi lòng và thi ân cho người bạn sỗ sàng này, không phải vì tình bạn mà vì sự lì lợm của người xin.

Nói thế, không có nghĩa Thiên Chúa như ông chủ trong dụ ngôn, khó tính và cần phải bị “làm phiền” mới chịu ban ơn. Ngược lại, đây là hình ảnh biểu đạt một vị Thiên Chúa luôn luôn xót thương con người, sẵn sàng lắng nghe và ban ơn. Thế nên, nếu ngay cả một người bạn trần gian còn làm điều đó vì sự chai lì, thì huống hồ Cha trên trời, Đấng nhân lành vô cùng, sẽ còn ban phát nhiều hơn nữa cho những ai kiên trì cầu xin với Ngài. Điều này nhấn mạnh rằng ai kiên trì cầu xin với Chúa thì chắc chắn sẽ được nhậm lời.

Để làm sáng tỏ ý nghĩa này, thánh Augustinô đã giải thích một cách tuyệt vời: “Phải kiên trì khi cầu xin là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Chúa sẽ ban. Nếu chúng ta chưa nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta, hoặc Ngài muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy lòng nhân ái.”

Lời giải thích này giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn về sự đáp lời của Thiên Chúa. Ngài không phải là một “ngân hàng” hay “ông bụt” chỉ biết cấp phát theo yêu cầu. Ngài là một Người Cha khôn ngoan và yêu thương, biết rõ điều gì là tốt nhất cho con cái mình. Sự kiên trì của chúng ta trong cầu nguyện không làm thay đổi ý Chúa, nhưng làm thay đổi chúng ta, làm tăng thêm lòng khao khát và sự chuẩn bị của tâm hồn để đón nhận ơn sủng.

Tắt một lời, Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt hảo. Chính lời kinh này đã liên kết chúng ta nên một với Đức Giêsu, Đấng là Người Con Duy Nhất của Cha, và với nhau trong cộng đoàn Giáo hội, để dâng lên Thiên Chúa những lời nguyện xin trong tâm tình Cha – con.

Cũng chính trong mối liên hệ thân thương này, mà Thiên Chúa không ngừng thi ân giáng phúc cho những ai thành tâm, tin tưởng, phó thác và chạy đến với Người. Ngài không chỉ ban những gì chúng ta xin, mà còn ban chính Chúa Thánh Thần, nguồn mạch của mọi ân sủng, để chúng ta ngày càng sống xứng đáng với ơn gọi làm con của Thiên Chúa.

Chúng ta hãy khắc ghi vào lòng bài học về cầu nguyện hôm nay. Đừng để đời sống cầu nguyện của chúng ta trở nên khô khan, máy móc, hay chỉ là một danh sách yêu cầu. Thay vào đó, hãy biến mỗi lời kinh Lạy Cha trở thành một cuộc gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa Cha.

Hãy đến với Ngài với trái tim tôn thờ, nhận biết sự vĩ đại và thánh thiện của Ngài. Hãy thống hối về những lỗi lầm và sẵn sàng tha thứ cho anh chị em. Hãy cảm tạ Ngài vì muôn vàn hồng ân đã lãnh nhận. Và hãy kiên nhẫn, trông cậy mà cầu xin cho những nhu cầu của cả hồn lẫn xác, tin tưởng vào tình yêu và sự khôn ngoan của Người Cha.

Khi chúng ta cầu nguyện như vậy, lời kinh của chúng ta sẽ thực sự là “lời kinh tuyệt vời trên hết mọi lời kinh,” mang lại bình an, niềm vui và sự sống dồi dào cho tâm hồn chúng ta.

 

Lm. Anmai, CSsR

 

 

KINH LẠY CHA: HƠI THỞ CỦA LINH HỒN, LỘ TRÌNH CỨU ĐỘ ĐỌC XUÔI ĐỌC NGƯỢC

Trong kho tàng kinh nguyện của Giáo hội, không có lời kinh nào thân thuộc, phổ biến và thấm đẫm ý nghĩa bằng Kinh Lạy Cha. Đây không chỉ là một lời kinh đơn thuần mà là bản tóm lược toàn bộ Tin Mừng, là tâm điểm của Thánh Kinh, như lời Thánh Augustinô đã khẳng định: “Cứ đọc hết các kinh nguyện trong sách Thánh, chúng ta sẽ tìm thấy những điều được thâu tóm trong lời kinh Chúa dạy. Với lời kinh này, không những chúng ta nguyện xin tất cả những gì chúng ta có thể ao ước cách chính đáng, mà còn theo trật tự những gì nên ao ước. Vì thế, kinh nguyện này không chỉ dạy chúng ta nguyện xin, mà còn huấn luyện tâm tình của chúng ta nữa…Dù chúng ta có đọc lời nào khác, những lời do người cầu nguyện đặt ra để khơi dậy lòng sốt sắng, chúng ta cũng chẳng nói gì khác ngoài điều đã có trong kinh Lạy Cha, nếu chúng ta cầu nguyện cho đúng và thích hợp” (x. Thư thánh Augustinô giám mục gửi cho Pơrôba về kinh Lạy Cha, trong Kinh Sách, IV, tr. 335).

Kinh Lạy Cha độc đáo vì chính là lời kinh “của Chúa”, được chính Chúa Giêsu, Người Con duy nhất của Chúa Cha, dạy các môn đệ của Ngài. Đồng thời, nó cũng là lời cầu nguyện của Hội Thánh, ăn sâu vào kinh nguyện phụng vụ, đặc biệt trong Thánh Lễ, các lời nguyện xin của kinh Lạy Cha còn cho thấy đặc tính cánh chung, hướng về ngày Chúa Quang Lâm “cho tới khi Chúa lại đến” (1Cr 11,26). Đây là lời kinh duy nhất Chúa Giêsu để lại, lời kinh tuyệt vời và phong phú vì chất chứa bao điều huyền nhiệm.

Một cách đặc biệt, Đức Giám mục Matthêô Nguyễn Văn Khôi đã chỉ ra một chiều kích sâu sắc của Kinh Lạy Cha: “Kinh Lạy Cha chẳng những là một lời cầu nguyện, mà còn là một lời tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa là Cha. Thiên Chúa Cha vừa là nguồn gốc mọi sự, vừa là cùng đích mọi loài. Đó là niềm tin căn bản nhất, bao trùm cả lộ trình đi và về của con người. Vì vậy kinh Lạy Cha vừa có thể đọc xuôi, vừa có thể đọc ngược.” (x. Kinh Lạy Cha của Linh Mục trong Năm Đức Tin, Gpquinhon.org).

Chúng ta sẽ cùng nhau khám phá ý nghĩa của Kinh Lạy Cha qua hai chiều kích này: đọc xuôi và đọc ngược, để Lời kinh này thấm sâu vào tâm hồn và biến đổi cuộc sống chúng ta.

Khi đọc xuôi Kinh Lạy Cha, chúng ta bắt đầu từ việc tuyên xưng Thiên Chúa là Cha, cầu xin cho danh Người cả sáng, cho Nước Người trị đến, cho thánh ý Người được thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Tiếp đến chúng ta xin Người những ơn cần thiết cho cuộc đời Kitô hữu của chúng ta, như được thỏa mãn những nhu cầu cần thiết của cuộc sống, được ơn tha thứ những lỗi lầm thiếu sót, được gìn giữ khỏi sa chước cám dỗ và được giải thoát khỏi quyền lực của ác thần.

Kinh Lạy Cha, đọc xuôi, bao gồm một lời thân thưa, hai lời nguyện ước và ba lời cầu xin:

Thiên Chúa được gọi bằng nhiều danh hiệu khác nhau trong Kinh Thánh và trong truyền thống Giáo hội: Thiên Chúa vĩnh cửu, Thiên Chúa quyền năng, Thiên Chúa tạo dựng, Thiên Chúa thánh thiện… Mỗi danh hiệu nói lên một ưu phẩm, một đặc tính của Thiên Chúa.

Nhưng không một danh hiệu nào lại đậm đà, trìu mến, ý nghĩa, và tràn đầy hy vọng cho bằng danh hiệu Cha. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ là mỗi khi cầu nguyện, hãy thân thưa: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Đây không chỉ là một danh xưng, mà là một lời mạc khải mối liên hệ chiều sâu, độc đáo giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha. Lời này diễn tả một chiều kích thiêng liêng, nơi các môn đệ được đi vào đời sống thân mật, liên kết với Chúa Cha và Chúa Con.

Cha không chỉ là nguồn cội phát sinh, Đấng tạo dựng nên vạn vật. Ngài còn là vòng tay nâng đỡ, là mái ấm chở che cho con cái. Ngài là động lực thúc đẩy chúng ta sống tốt, là lý tưởng mời gọi chúng ta vươn tới sự thánh thiện. Từ ngữ Cha gợi lên cả một trời yêu thương vừa thân thiết, gần gũi, vừa huyền nhiệm vô cùng.

Từ đây, lời thân thương “Lạy Cha” luôn vang vọng mãi nơi môi miệng của người Kitô hữu. Lời này không chỉ gắn kết họ với Thiên Chúa một cách cá vị, mà còn nối kết tương quan cha con trong một tình yêu vĩnh cửu. Được gọi Thiên Chúa là Cha, được làm con cái của Thiên Chúa – đó là một hồng ân thật cao quý Chúa muốn ban cho con người. Đây là tư cách rất riêng, rất đặc biệt của những ai là môn đệ Đức Giêsu. Ơn gọi làm con Thiên Chúa là ơn gọi căn bản nhất, ơn gọi cao trọng nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Đức Giêsu Kitô. Vì thế, chúng ta phải sống hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha và huynh đệ với tha nhân là anh chị em. Bởi chưng toàn thể nhân loại chỉ có một Cha và tất cả đều là anh em chị em của nhau trong đại gia đình của Thiên Chúa.

“Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển” và “Triều đại Cha mau đến” là hai lời nguyện ước của những người con thảo hiếu hướng về Cha mình.

Thiên Chúa không cần đến lời chúng ta cầu nguyện để nhờ đó danh Người và triều đại Người mới được hiển thánh, được tôn vinh. Tự bản chất, Thiên Chúa là Đấng Thánh, là Đấng Vinh Hiển. Có hay không có lời cầu xin của chúng ta, danh Người mãi mãi vẫn rạng ngời vinh hiển.

Vậy thì chúng ta cầu nguyện như thế để làm gì? Chắc chắn một điều đó là vì phần ơn ích cho chúng ta. Hai lời nguyện ước này là xin cho danh Thiên Chúa được hiển thánh nơi chính con người chúng ta. Thiên Chúa là Đấng Thánh. Là con Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha, người con xin Cha thánh hoá, xin Cha kiện toàn mỗi ngày để con được nên thánh, được tham dự vào cuộc sống thần linh với Cha. Người con cần sống hiếu thảo, biết quan tâm, chăm lo đến những công việc thuộc về Cha của mình. Là con của Cha trên trời, chúng ta phải làm cho Danh Cha được cả sáng và Nước Cha trị đến, Ý Cha được thực hiện trong cuộc sống của mình và qua những việc làm của chúng ta. Cha rất vui, hài lòng khi có những người con biết sống hiếu thảo như thế.

“Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày; xin tha tội cho chúng con, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”. Đây là ba lời cầu xin thiết thực cho những nhu cầu chính đáng của cả phần xác và phần hồn của chúng ta.

Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày: Thân xác cần cơm bánh lương thực để tồn tại và phát triển. Đây là lời cầu xin cho những nhu cầu thiết yếu nhất của cuộc sống đời thường. Tuy nhiên, đối với người Kitô hữu, lời cầu này còn mang ý nghĩa sâu xa hơn trên bình diện thiêng liêng. Bởi ngoài nhu cầu vật chất, chúng ta cần đến một thứ thần lương tuyệt vời khác chính là Bánh Hằng Sống, là Thánh Thể Chúa Kitô. Nơi Thánh Thể, chúng ta được nuôi dưỡng bằng chính Thịt Máu Chúa, nguồn sức sống thần thiêng cho linh hồn.

Xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có lỗi với chúng con: Linh hồn cần ơn thánh và sự tha thứ để được sống. Trước mặt Thiên Chúa, con người là tội nhân, yếu đuối và dễ vấp phạm. Ơn tha thứ thật cần thiết cho sự chữa lành và tái sinh của linh hồn. Điều kiện kèm theo – “như chúng con cũng tha kẻ có lỗi với chúng con” – nhấn mạnh rằng tha thứ cho nhau là điều kiện cần và đủ để Chúa tha thứ cho mình. Được Cha yêu thương chăm sóc và thứ tha các lỗi lầm, con được mời gọi noi gương Cha sống yêu thương tha thứ cho anh em của mình. Như thế mới trọn vẹn tình con thảo hiếu, thể hiện chúng ta thực sự là con cái của Cha nhân lành.

Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ: Cạm bẫy và cám dỗ vẫn bủa vây tứ bề trong cuộc sống trần gian. Chúng ta yếu đuối và dễ dàng sa ngã. Vì thế, chúng ta cần tỉnh thức trước mọi cơn cám dỗ và tha thiết khẩn cầu Chúa gìn giữ. Ơn Chúa là nguồn trợ lực, là sức mạnh để con người vượt thắng mọi cám dỗ và thoát khỏi quyền lực của ác thần. Đây là lời cầu xin cho sự kiên vững trong đức tin và sự trung tín cho đến cùng.

Đọc ngược Kinh Lạy Cha là một cách độc đáo để đi lại lộ trình đức tin của dân Do Thái ngày xưa và để bày tỏ niềm xác tín mới đối với Thiên Chúa vì những gì Người ban cho chúng ta qua Kinh Lạy Cha. Đây là một hành trình đức tin từ đích điểm trở về khởi nguyên, cho thấy mọi ơn lành đều bắt nguồn từ tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa Cha.

Vậy chúng ta hãy cùng nhau tuyên xưng:

Thiên Chúa là Cha quyền năng đã cứu chúng ta cho khỏi sự dữ. Cũng như ngày xưa Thiên Chúa đã cứu dân Israel ra khỏi ách nô lệ bên Ai Cập bằng những phép lạ vĩ đại, thì nay qua bí tích Rửa Tội, mỗi người chúng ta cũng đã được Thiên Chúa cứu khỏi quyền lực của Satan là đầu mối của mọi sự dữ, của tội lỗi và sự chết. Ngài là Đấng đã chiến thắng sự ác và giải phóng chúng ta.

Thiên Chúa là Cha yêu thương không để chúng ta sa chước cám dỗ. Sau khi được Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, dân Do Thái đã đi qua hoang địa tiến về đất hứa, đã gặp rất nhiều cám dỗ và thử thách: đói khát, than vãn, thờ ngẫu tượng. Sau khi chịu phép Rửa Tội, cuộc đời chúng ta cũng là một hành trình xuyên qua hoang địa trần gian để tiến về đất hứa đích thực là Thiên Đàng. Chúng ta cũng gặp phải những chước cám dỗ như người Do Thái ngày xưa. Nhận ra sự yếu đuối của mình, chúng ta tha thiết khẩn cầu Chúa gìn giữ và Người đã gìn giữ chúng ta bằng ân sủng của Ngài, không để chúng ta bị cám dỗ vượt quá sức.

Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta. Mặc dù dân Do Thái đã nhiều lần phản bội, quay lưng lại với Thiên Chúa, thử thách Thiên Chúa, cứng đầu cứng cổ bất tuân lệnh Chúa, nhưng họ đã được Chúa tha thứ, nhờ lời chuyển cầu của ông Mô-sê. Cũng vậy, nhờ công nghiệp cứu chuộc của Đức Kitô trên thập giá, chúng ta luôn được Thiên Chúa thứ tha những lỗi lầm thiếu sót và những xúc phạm đến Thiên Chúa và anh chị em là hình ảnh của Người. Được Thiên Chúa tha thứ, chúng ta cũng tha thứ cho nhau, để cùng nhau tiến bước trên con đường của Chúa trong tình hiệp thông.

Thiên Chúa là Cha quan phòng luôn chăm sóc và nuôi dưỡng chúng ta. Trong suốt hành trình 40 năm trước khi tiến vào đất hứa là nơi chảy sữa và mật, mỗi ngày dân Do Thái đã được Thiên Chúa ân cần ưu ái ban cho manna, thịt chim cút và nước sạch từ tảng đá chảy ra. Ngày nay, Thiên Chúa quan phòng cũng luôn lo liệu cho chúng ta mọi nhu cầu vật chất, để chúng ta có thể sống xứng đáng và phát triển các khả năng. Hơn nữa, Người còn ban cho chúng ta bánh hằng sống là Lời Chúa và Bí tích Thánh Thể để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, cùng với dòng nước ơn thánh vọt ra từ tảng đá là Đức Kitô đang hoạt động qua các bí tích, giúp chúng ta có sức đạt đến đất hứa đích thực là Nước Thiên Đàng, nơi tràn trề sữa và mật thiêng liêng, khiến cho chúng ta không bao giờ đói khát.

Thiên Chúa là Cha khôn ngoan đã mạc khải cho chúng ta thánh ý của Người và giúp chúng ta thực hiện. Cùng với manna, chim cút và nước từ tảng đá vọt ra, Thiên Chúa còn ban cho dân Do Thái các huấn lệnh bày tỏ ý muốn của Người, để họ tuân giữ và được sống. Ngày nay, chúng ta cũng nhận được thánh ý của Thiên Chúa biểu lộ qua Thánh Kinh, qua giáo huấn của Giáo Hội. Đời sống của mỗi người chúng ta hệ tại việc thực thi ý Chúa. Khi kết hiệp sự vâng phục của chúng ta với sự vâng phục của Chúa Giêsu đối với thánh ý Cha, tức là chúng ta làm cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.

Thiên Chúa là Vua uy quyền đã làm cho Nước Chúa trị đến nơi chúng ta. Sau khi hoàn tất cuộc hành trình xuyên qua sa mạc, Thiên Chúa đã ban cho dân Israel đất hứa làm gia nghiệp, ở đó họ sống hạnh phúc dưới quyền cai trị của Người. Sau khi hoàn tất cuộc hành trình nơi dương thế, chúng ta cũng sẽ được đưa vào Nước Trời, nơi Thiên Chúa hiển trị, để Người mãi mãi là Vua của chúng ta và chúng ta sẽ là dân của Người đến thiên thu vạn đại, và trong Nước Người không còn đau khổ, khóc than và tang tóc, nhưng chỉ có sự sống dồi dào trong hạnh phúc vô biên.

Thiên Chúa là Cha, đó là thánh danh mà chúng ta ca tụng đến muôn ngàn đời. Sống trong đất hứa Thiên Chúa đã ban, những người Do Thái đạo đức không ngừng tôn vinh danh Chúa, vì chính nhờ danh Người họ đã được cứu thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập, được giúp đỡ để vượt qua các chước cám dỗ, được tha thứ mọi tội lỗi, được nuôi dưỡng chăm sóc, được biết thánh ý của Thiên Chúa, được sống dưới quyền cai trị của Chúa. Mai ngày trên Thiên Đàng, chúng ta cũng sẽ không ngừng ca tụng thánh danh Thiên Chúa và chúng ta có thể khởi đầu Kinh Lạy Cha như sau: “Lạy Cha, giờ đây chúng con được ở với Cha trên trời.” Đây là lời tuyên xưng niềm vui trọn vẹn khi chúng ta đạt đến cùng đích của cuộc đời.

Kinh Lạy Cha thực sự là một lời kinh tuyệt vời.

Vinh danh và thánh ý Chúa được đặt trên hết, thể hiện lòng ưu tiên tuyệt đối cho Thiên Chúa. Các nhu cầu của con người được đặt sau, nhưng lại được đáp ứng một cách đầy đủ trong sự quan phòng của Ngài.

Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời vì qua đó, con người được gọi Thiên Chúa là Cha. Mỗi người là con cái của Thiên Chúa, một danh vị cao trọng mà không lời kinh nào khác có thể mang lại.

Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời vì xin Cha ban ơn không những phần xác mà cả phần hồn; xin Cha không chỉ tha tội trong quá khứ mà còn gìn giữ cho khỏi sa chước cám dỗ ở tương lai. Nó bao trùm toàn bộ cuộc đời của chúng ta, từ những nhu cầu vật chất đến những khát vọng thiêng liêng sâu xa nhất.

Kinh Lạy Cha là lời kinh tuyệt vời và huyền nhiệm, nối kết con người với Thiên Chúa. Đây là lời kinh đến từ Thiên Chúa, là quà tặng của chính Thiên Chúa trao ban cho con người. Chính vì thế, Thiên Chúa ưa thích và không ngừng ban muôn ơn cho con người thông qua lời kinh thân thương, đơn giản và dễ hiểu này. Nó là cầu nối, là con đường để chúng ta tiến vào mối tương quan mật thiết với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Anh chị em thân mến, mỗi lần chúng ta đọc Kinh Lạy Cha, dù xuôi hay ngược, chúng ta không chỉ đọc những lời lẽ quen thuộc. Chúng ta đang tuyên xưng niềm tin của mình vào Thiên Chúa là Cha, đang bước đi trên lộ trình cứu độ mà Ngài đã vạch ra, và đang tái khẳng định vị trí của mình là con cái yêu dấu của Ngài.

Xin cho mỗi người chúng ta luôn ý thức được giá trị vô ngần của Kinh Lạy Cha, để mỗi khi đọc, chúng ta không chỉ đọc bằng môi miệng, mà bằng cả trái tim, bằng tất cả niềm tin và lòng mến. Để lời kinh này thực sự là hơi thở của linh hồn, là nguồn mạch của mọi ân sủng, và là lộ trình dẫn chúng ta về với Cha trên trời. Amen.

 

Lm. Anmai, CSsR

 

 

CẦU NGUYỆN CỦA TÔI, ĐIỀU GÌ CÒN THIẾU? – MỐI TƯƠNG QUAN CON THẢO VÀ LÒNG TÍN THÁC

Trong hành trình đức tin, cầu nguyện là hơi thở của linh hồn, là nhịp đập của trái tim muốn kết nối với Thiên Chúa. Chúng ta cầu nguyện theo nhiều cách khác nhau, bằng những lời kinh quen thuộc, bằng những tâm tình tự phát, hay bằng sự thinh lặng chiêm niệm. Thế nhưng, liệu chúng ta đã thực sự hiểu và sống đúng ý nghĩa đích thực của lời cầu nguyện Kitô giáo chưa?

Bài Tin Mừng hôm nay mở ra cho chúng ta một khung cảnh quen thuộc nhưng đầy sức gợi: các môn đệ quan sát Đức Giêsu cầu nguyện. Và điều họ nhận ra là một nét gì đó rất mới mẻ, rất đặc trưng, không giống với bất kỳ kiểu cầu nguyện nào họ từng biết. Nét này không thấy có trong thói tục của người Do Thái nói chung, và của nhóm Biệt Phái nói riêng; khác cả với lối cầu nguyện mà Gioan Tẩy Giả, nhóm Ét-sê-ni và các môn đệ ông thường làm. Người Do Thái nói chung cầu nguyện dựa trên việc cất cao giọng đọc các thánh vịnh, các lời ngôn sứ hay sách luật, một cách thường mang tính nghi thức và cộng đồng.

Chính vì thế mà một vài đại diện trong nhóm môn đệ Đức Giêsu đã khẩn khoản xin Người dạy cho họ biết cầu nguyện, và cầu nguyện theo cách thức riêng của Người. Lời thỉnh cầu đó quả là chính đáng, và Đức Giêsu sẵn sàng đáp ứng vì nó liên quan tới điều quan trọng nhất mà Người đang muốn khẳng định: Cầu nguyện chính là đi vào tương quan phó thác với Chúa Cha nhân ái. Đây là điểm khởi đầu cho mọi suy niệm của chúng ta hôm nay: Cầu nguyện không phải là một công thức, mà là một mối tương quan.

Điều mà các môn đệ mong đợi chắc hẳn không phải là được Thầy dạy cho một công thức cầu nguyện mà chúng ta ngày nay quen gọi là kinh đọc. Người Do Thái thời đó vẫn quen sử dụng các Thánh Vịnh như công thức nền tảng. Tuy nhiên, rất có thể khi quan sát Đức Giêsu cầu nguyện, các môn đệ đã nhận ra một điều gì rất khác lạ, một kiểu cách cầu nguyện không giống ai. Nét này khác xa lề thói các Pharisêu vẫn thường cầu nguyện nơi công cộng, phô trương đạo đức, hoặc các tu sĩ Esseni làm tại Qumran với những nghi thức nghiêm ngặt.

Nét đặc sắc nhất các ông nhận ra chính là tâm tình con thảo thâm sâu chưa từng thấy bất cứ nơi đâu. Xét cho cùng, thì Thánh Vịnh cũng không phải là những ‘kinh’ theo nội dung mà bổn đạo chúng ta vẫn hiểu ngày nay. Tự nó, Thánh Vịnh là những tâm tình rất chân thành, nhưng trong tinh thần của ‘Cựu Ước’, mà mỗi người Do Thái diễn tả tương quan thường ngày của mình với Đức Chúa Giavê. Tất cả các tâm tình đó đều dựa trên một nền tảng duy nhất được các luật sĩ và Biệt Phái nhấn mạnh, đó là lòng trung thành kiên vững đối với giao ước đã ký kết – một giao ước mang tính sòng phẳng và điều kiện. Sau này vào thời Đức Giêsu, qua ảnh hưởng của phái Esseni, thái độ thống hối để lãnh phép rửa được nhấn mạnh như một con đường đến sự tha thứ.

Nếu vậy, thì nét cầu nguyện đặc trưng của Thầy Giêsu, đồng thời cũng là của từng người Kitô hữu chúng ta, cụ thể là gì? Đức Giêsu không đơn thuần dạy một công thức diễn đạt mới, cái sau này được đặt tên là ‘Kinh Lạy Cha’. Ngay trong câu Đức Giêsu nói: “Khi cầu nguyện anh em hãy thưa (thay vì nói hoặc đọc) thế này: ‘Lạy Cha, nguyện (thay vì cầu xin) cho danh Cha vinh hiển…’”, ta sẽ thấy ngay nổi cộm một tâm tình, đó là tâm tình tín thác. Ngay cả các điều ‘xin’ của phần sau cũng toát ra niềm tin tưởng sâu đậm nhất. Chính cái tâm tình này mới là chất tố cốt lõi của lối cầu nguyện mà Đức Giêsu đang muốn thông truyền.

Điều này rất quan trọng. Cầu nguyện không phải là một công thức đọc, một bài học thuộc lòng, mà là một cuộc đối thoại cá vị, thân mật giữa con cái và Cha. Tâm tình con thảo, tâm tình tín thác là chất liệu làm nên giá trị của lời kinh. Chúng ta không chỉ nói chuyện với Thiên Chúa, mà còn thưa chuyện với Ngài; không chỉ cầu xin những gì mình muốn, mà còn nguyện xin cho ý Ngài được thể hiện.

Đương nhiên là bất cứ lời cầu nguyện nào cũng đều ít nhiều mang tâm tình tín thác. Trong mọi tôn giáo, khi tín đồ khấn vái, họ cơ bản tin tưởng sẽ được thần thánh phù trì. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ, dựa trên cơ sở nào mà họ đặt niềm tin tưởng phó thác?

Người Do Thái có cơ sở của Cựu Ước: một giao ước sòng phẳng giữa Đức Chúa Giavê với dân riêng của Ngài, nơi sự trung thành được trao đổi bằng phúc lành.

Gioan Tẩy Giả nhấn mạnh trên nền tảng thống hối và lãnh phép rửa để được tha tội (xem Lc 3, 3-18), với một sự nhấn mạnh vào sự sạch tội để được chấp nhận.

Tín đồ các tôn giáo khác nói chung, thường dựa trên quy luật ‘có đi có lại’ của giao tế xã hội. Họ thờ cúng dâng hương, làm lễ vật để mong được thần thánh phù trì, ban ơn.

Thế còn Kitô hữu chúng ta cầu nguyện dựa trên cơ sở nào? Đức Giêsu dùng hai hình ảnh để quảng diễn cơ sở của lòng tín thác Kitô hữu trong cầu nguyện: người bạn và người cha. Hai hình ảnh này có tác dụng trước hết là triệt tiêu cả ba cơ sở nói trên:

Người bạn: Nếu là ‘nguyện xin’ với bạn, thì sẽ không còn sự sòng phẳng của giao kèo ký kết. Bạn bè giúp nhau vì tình nghĩa, không vì điều kiện. Câu chuyện gõ cửa nhà bạn vay bánh giữa đêm khuya (Lc 11,5-8) nhấn mạnh sự kiên trì, nhưng cũng là sự tin tưởng không ngại làm phiền, một sự thân mật gần gũi.

Người cha: Nếu là ‘nguyện xin’ với cha, thì không còn sự cách biệt trên dưới như quan tòa với tội nhân, và cũng chẳng cần lễ vật quà cáp lót đường như giao dịch. Con cái đến với cha mẹ với lòng tín thác tự nhiên, không đòi hỏi chứng minh hay đền đáp. Câu chuyện xin ‘bố’ của ăn (Lc 11,11-12) nêu rõ thái độ rất ‘độc’ này của cầu nguyện Kitô hữu – một niềm tin tưởng hầu như mù quáng vào lòng nhân hậu vô biên của Cha.

Chỉ còn một điều duy nhất quan trọng là tin tưởng hầu như mù quáng, cố chấp tới độ không ngại gây phiền hà. Đây là một loại tín thác vượt trên mọi lý lẽ và tính toán thông thường. Cầu nguyện Kitô hữu không phải là một giao dịch, mà là một sự phó thác hoàn toàn vào tình yêu thương và sự quan phòng của Thiên Chúa.

Và điều này không chỉ đơn thuần là một khẳng định trên lý thuyết. Có lẽ vào thời điểm Đức Giêsu trả lời câu hỏi của môn đệ, nó còn có vẻ lý thuyết xa vời thật, thậm chí ngược ngạo nữa là đằng khác: Thiên Chúa mà là cha và là bạn sao được! Thế nhưng sau biến cố Thập giá và Phục sinh, thì nó đã trở thành một thực tế quá rõ ràng và hiển nhiên. Thực vậy, niềm tin vào thập giá và phục sinh trở thành cơ bản trong tương quan (giao ước mới) giữa người môn đệ với Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô. Họ đã nắm bắt được bằng chứng không thể chối cãi về một Thiên Chúa từ nhân tới độ không tiếc bất cứ điều gì đối với những ai kêu cầu Người, ngay cả hy sinh tới Người Con yêu quý nhất Người cũng chẳng từ.

Do vậy, bất cứ ai tự cho mình là môn đệ Đức Giêsu, mà không biết chất tố tin tưởng phó thác này khi cầu nguyện, thì chưa thể được kể là Kitô hữu chân chính. Cầu nguyện là thước đo của niềm tin.

Nếu như thế, ta có thể khẳng định được chăng: tin tưởng phó thác trong cầu nguyện chính là thước đo chính xác nhất của niềm tin Kitô hữu? Thánh Phaolô xác quyết: chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải lẽ, nếu Thần Khí không rên siết trong ta (xem Rm 8,18-27). Phải chăng Đức Giêsu cũng có ý tưởng tương tự khi nói ‘Cha trên trời ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người’?

Lời của Chúa Giêsu không chỉ là một giáo huấn, mà là một lời hứa: Cha trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người. Điều này cho thấy rằng, để thực sự cầu nguyện với tâm tình tín thác con thảo, chúng ta cần đến sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Ngài là Đấng cầu nguyện trong chúng ta, Đấng biến những lời cầu xin khô khan của chúng ta thành tiếng rên siết sâu thẳm của con cái Thiên Chúa.

Thế thì, một chút chiêm ngắm thập giá, một chút vào sâu hơn trong tình yêu nhân ái của Thiên Chúa, là điều tối cần thiết để mọi Kitô hữu có thể tiến hành cầu nguyện của mình.

Chiêm ngắm thập giá: Thập giá là minh chứng hùng hồn nhất cho lòng tín thác của Đức Giêsu vào Cha, và cũng là minh chứng cho tình yêu vô biên của Cha dành cho chúng ta. Chiêm ngắm thập giá giúp chúng ta nhận ra rằng Thiên Chúa đã không tiếc bất cứ điều gì để cứu vớt chúng ta, và do đó, chúng ta có thể hoàn toàn tín thác vào Ngài.

Vào sâu hơn trong tình yêu nhân ái của Thiên Chúa: Cầu nguyện không phải để chúng ta hiểu hết Thiên Chúa, mà là để chúng ta cảm nghiệm sâu sắc tình yêu của Ngài. Khi chúng ta thực sự cảm nghiệm được tình yêu ấy, lòng tín thác sẽ tự nhiên lớn lên.

Tuy nhiên, thật không may, ‘cái chút’ này trên thực tế xem ra vẫn còn thiếu trầm trọng trong cầu nguyện của nhiều Kitô hữu chúng ta. Chúng ta vẫn còn cầu nguyện theo kiểu xin xỏ, mặc cả, hoặc chỉ đơn thuần đọc kinh cho đủ bổn phận. Chúng ta chưa thực sự đi sâu vào mối tương quan cá vị, chưa hoàn toàn phó thác, và chưa để Chúa Thánh Thần hoạt động cách trọn vẹn trong lời cầu nguyện của mình.

“Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho” – lời hứa quen thuộc này không phải là một công thức thần diệu để mọi ý muốn của chúng ta đều được chấp thuận. Việc cầu nguyện khởi đi từ những nhu cầu cụ thể, nhưng sẽ hướng tới điều bất ngờ, hướng tới sự vô biên của Thiên Chúa. Theo thánh Augustino, “Việc cầu xin không nhằm thông báo cho Thiên Chúa, nhưng là huấn luyện con người.”

Khi cầu xin, chúng ta thú nhận sự bất lực của mình và công nhận Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, là Đấng Chí Ái. Một lời cầu xin với Chúa Cha bao hàm hai cuộc hoán cải:

Thứ nhất, hoán cải về mục đích cầu nguyện: Với lời cầu xin cho lợi ích của Nước Thiên Chúa, chúng ta thấy rằng không thể xem xét những điều đó theo quan điểm của mình, theo những lợi ích cá nhân nhỏ bé. Vậy, khi cầu xin, tức là để cho thánh ý Thiên Chúa được thể hiện. Đây là sự chuyển dịch từ ý muốn cá nhân sang ý muốn Thiên Chúa. Chúng ta cầu nguyện để ý Chúa được thể hiện, chứ không phải ý tôi.

Thứ hai, hoán cải về khát vọng: Vì ý thức rõ ràng về lời cầu xin của mình với Thiên Chúa, người Kitô hữu khám phá ra một khát vọng nền tảng: gặp gỡ Thiên Chúa tình yêu. Lúc ấy, từ những nhu cầu (cụ thể, vật chất), chúng ta chuyển sang khát vọng (sâu xa, thiêng liêng), một cuộc chuyển dịch dần dần và đau đớn, nhưng cần thiết để chúng ta lớn lên trong tình yêu và mối tương giao với Ngài.

Hình ảnh mà Denys l’Arépagite đã dùng thật ý nghĩa: “Người cầu xin là người có thái độ của ‘kẻ đứng trên con tàu, nắm chắc sợi dây cột tàu vào bờ. Họ không kéo tảng đá về phía mình, nhưng mình tiến dần tới tảng đá, họ và con tàu.” Điều này diễn tả bản chất của cầu nguyện:

Cầu nguyện, đó không phải là áp đặt ý muốn của mình trên Thiên Chúa, không phải là kéo Thiên Chúa về phía mình để Ngài chiều theo ý mình.

Cầu nguyện, đó không phải là làm Thiên Chúa thay đổi, không phải là thuyết phục Ngài làm điều Ngài không muốn.

Mà cầu nguyện là xin Thiên Chúa cho chúng ta sẵn sàng tuân theo thánh ý, theo kế hoạch cứu độ của Người đối với thế giới.

Cầu nguyện là xin Thiên Chúa thay đổi chúng ta, và biến tâm hồn chúng ta thành tâm hồn của người con, luôn tín thác, luôn khao khát làm đẹp lòng Cha.

Nếu chúng ta kiên trì, chúng ta sẽ được, sẽ tìm thấy và cánh cửa sẽ mở ra. Vì thế, chúng ta không được quyền nản chí. Cầu nguyện, trước hết là kiên trì, một sự kiên trì trong niềm tin và phó thác, chứ không phải là sự lì lợm muốn đạt được ý riêng.

Lời cầu nguyện của các môn đệ: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con biết cầu nguyện!” vẫn tiếp tục phải là điệp khúc khởi đầu cho mọi cầu nguyện chân thành của mọi Kitô hữu chúng ta. Bởi lẽ, việc cầu nguyện không phải là một kỹ thuật để chúng ta kiểm soát Thiên Chúa, mà là một nghệ thuật để chúng ta buông bỏ cái tôi, mở lòng đón nhận tình yêu và ý muốn của Ngài.

Điều gì còn thiếu trong lời cầu nguyện của chúng ta? Có lẽ là tâm tình con thảo đích thực, lòng tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa là Cha, và sự nhận biết rằng chính Chúa Thánh Thần mới là Đấng cầu nguyện trong chúng ta.

Hãy xin Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta:

Một trái tim biết tín thác: để chúng ta dám kêu lên Abba, Cha ơi!

Một tâm hồn kiên trì: không nản chí khi chưa được như ý, nhưng tiếp tục gõ cửa trong niềm tin.

Một sự khao khát sâu xa: không chỉ xin những điều vật chất, mà khao khát gặp gỡ Thiên Chúa Tình Yêu.

Sự hoán cải không ngừng: để lời cầu nguyện không phải là áp đặt ý mình, mà là để Thiên Chúa thay đổi chúng ta, biến chúng ta thành những người con vâng phục và yêu mến.

Ước gì mỗi lời kinh của chúng ta đều là một lời kinh đầy tâm tình, một bằng chứng sống động cho niềm tin Kitô hữu chân chính của chúng ta. Amen.

 

Lm. Anmai, CSsR

 

 

CẦU NGUYỆN: HƠI THỞ CỦA NGƯỜI CON HIẾU THẢO VỚI THIÊN CHÚA LÀ CHA

Trong hành trình đức tin của mỗi người Kitô hữu, cầu nguyện là một thực hành không thể thiếu. Hôm nay, bài Tin Mừng đưa chúng ta trở lại với một bài học nền tảng và cốt yếu nhất: Chúa Giêsu dạy cầu nguyện (Lc 11,1-13). Điều đó cho chúng ta thấy “cầu nguyện là một nhu cầu thiết yếu”, không chỉ là một bổn phận, mà là hơi thở của linh hồn. Và Kinh Lạy Cha, lời kinh mà chính Chúa Giêsu đã dạy, trở thành lời cầu nguyện thật tâm tình của chúng ta đối với Thiên Chúa, một bản đồ chỉ dẫn chúng ta cách thức để thưa chuyện với Đấng Tạo Hóa.

Điều diệu kỳ nhất, điều khác biệt nhất mà Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta chính là việc Ngài cho phép chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha. Một tiếng gọi thân thương, dấu ái, đầy kính tin và mến yêu. Đó là một lời thốt lên từ con tim, diễn tả một tấm lòng phó thác và tin tưởng tuyệt đối. Một lời nói chào kính là ân huệ nhưng không, ngà ngọc biết bao! Đó là một bày tỏ khởi đầu với ý nghĩa thâm sâu từ tâm tình con thảo, một mối tương quan mà trước Chúa Giêsu, con người không thể nào hình dung ra được.

Trước khi Chúa Giêsu đến, Thiên Chúa thường được cảm nhận là Đấng quyền năng, xa vời, Đấng xét xử. Nhưng Chúa Giêsu đã mạc khải một khuôn mặt mới của Thiên Chúa: Abba – Cha ơi! Tiếng gọi này thay đổi hoàn toàn cách chúng ta tiếp cận với Đấng Tạo Hóa. Nó biến sự sợ hãi thành tình yêu, biến nghĩa vụ thành sự gần gũi, biến khoảng cách thành sự thân mật.

Lời cầu nguyện của người con thảo không chỉ dừng lại ở tiếng “Cha ơi!”, mà đi vào những thao thức sâu xa của tình yêu đối với Cha mình.

Chúng ta cầu nguyện: “Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển”. Sống cho danh thánh Cha, là tôn vinh Cha bằng những cố gắng và hy sinh của chúng ta trong cuộc sống hằng ngày. Đó là nỗ lực sống tốt đời mình mỗi ngày, không chỉ vì bản thân mà để danh Cha luôn rạng rỡ vinh quang qua chính cuộc đời của chúng ta. Khi chúng ta sống trung thực, sống yêu thương, sống công chính, chúng ta đang làm vinh danh Chúa Cha. Khi chúng ta vượt qua cám dỗ, khi chúng ta kiên nhẫn trong thử thách, khi chúng ta tha thứ cho người xúc phạm mình, chúng ta đang phản chiếu ánh sáng vinh quang của Thiên Chúa ra cho thế gian.

Lời kinh Lạy Cha tiếp tục với lời cầu nguyện: “Xin cho triều đại Cha mau đến”. Điều này không chỉ là mong đợi ngày cánh chung, ngày Chúa tái lâm trong vinh quang. Mà hơn hết, để triều đại Cha mau đến, chúng ta hãy sống với Chúa bằng tình con thảo, bằng tất cả lòng mến yêu. Tình yêu con thảo này không phải là một cảm xúc thoáng qua, mà là một thái độ sống, một sự cam kết.

Với tha nhân, chúng ta hãy thể hiện yêu thương một cách cụ thể. Triều đại của Chúa là triều đại của tình yêu, của công bằng, của hòa bình. Vì thế, để triều đại Cha mau đến, chúng ta không thể chỉ cầu nguyện bằng môi miệng. Chúng ta phải hành động. Với tha nhân, chúng ta hãy làm những gì mang lại lợi ích phần rỗi cho họ, không chỉ phần hồn mà cả phần xác. Chúng ta hãy làm cho xã hội mà chúng ta đang hiện diện luôn có được bình an, công bằng, chân lý và hạnh phúc thật sự. Khi chúng ta đấu tranh cho công lý, khi chúng ta chia sẻ bác ái với người nghèo, khi chúng ta xây dựng sự hòa thuận trong gia đình và cộng đồng, chúng ta đang góp phần làm cho triều đại Thiên Chúa hiển trị ngay tại trần gian này.

Tuy nhiên, để triều đại Cha mau đến, mỗi người phải trả giá không ít. Con đường theo Chúa Giêsu, con đường của tình yêu, không phải là con đường trải hoa hồng. Có những lúc chúng ta phải hy sinh cái tôi, hy sinh tiện nghi cá nhân, thậm chí phải đối mặt với sự chống đối, hiểu lầm. Nhưng giá phải trả càng cao thì việc làm đó luôn có giá trị càng lớn. Bởi vì, đó là giá trị của sự tự hiến, của tình yêu đích thực, của sự góp phần vào công trình cứu độ vĩ đại của Thiên Chúa.

Sau khi đặt vinh quang Cha và triều đại Cha lên trên hết, Kinh Lạy Cha đi vào những nhu cầu cụ thể của đời sống con người, nhưng vẫn giữ vững tinh thần con thảo và sự phó thác.

“Xin cho chúng con lương thực hằng ngày”. Chúng ta cầu xin Thiên Chúa ban cho những nhu cầu thiết yếu để duy trì sự sống và chu toàn bổn phận. Dầu vậy, lời xin này không có nghĩa là chúng ta thụ động chờ đợi mọi thứ từ trời rơi xuống. Mỗi chúng ta phải nỗ lực và cố gắng làm ra lương thực và của cải vật chất bằng công sức, tài năng mà Chúa đã ban. Sự cầu nguyện không thay thế cho sự làm việc, mà nó nâng đỡ, soi sáng cho công việc của chúng ta, giúp chúng ta làm việc trong tinh thần trách nhiệm và lòng biết ơn.

“Xin tha tội chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”. Đây là một lời cầu xin kép, gắn liền với một điều kiện. Chúng ta xin đón nhận ơn tha thứ của Chúa thật lòng, nhưng đồng thời, mỗi người chúng ta cũng phải biết tha lỗi cho người khác. Bởi vì biết đón nhận thì phải biết cho đi. Điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ thì phải biết thứ tha cho tha nhân. Tấm lòng không tha thứ sẽ là rào cản ngăn cách chúng ta khỏi lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha giàu lòng xót thương, nhưng Ngài mời gọi chúng ta phản chiếu lòng xót thương ấy trong mối tương quan với anh em mình.

Cuối cùng, chúng ta cầu xin: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”. Trong cuộc đời này, cạm bẫy và chước cám dỗ thì đầy dẫy! Ma quỷ không ngừng tìm cách lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa, xa rời con đường sự thật và tình yêu. Tự sức mình, chúng ta yếu đuối, dễ vấp ngã. Vì thế, vượt qua và không bị sa lầy là nhờ ơn Chúa giúp. Lời cầu nguyện này là lời bày tỏ sự yếu đuối của chúng ta và sự tin tưởng vào quyền năng bảo vệ của Cha trên trời. Cha không bao giờ bỏ rơi con cái mình trước những thử thách vượt quá sức.

Kinh Lạy Cha dạy chúng ta cách cầu nguyện, nhưng Chúa Giêsu còn mời gọi chúng ta một thái độ cầu nguyện quan trọng: cầu nguyện liên lỉ và kiên trì. Đây là lời mời gọi của Tin Mừng.

Vì Thiên Chúa là Cha yêu thương, nên chúng ta hãy cầu nguyện với Ngài như chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta. Ngài muốn chúng ta kiên trì gõ cửa, kiên trì xin, kiên trì tìm kiếm. Chúa Giêsu dùng dụ ngôn người bạn đến gõ cửa xin bánh lúc nửa đêm, hay dụ ngôn bà góa kiên trì đến xin quan tòa bất chính, để dạy chúng ta về sự bền bỉ trong cầu nguyện.

Cầu nguyện không chỉ là lặp lại những lời đã học thuộc. Cầu nguyện là nâng hồn lên cùng Chúa, là gặp gỡ Chúa với bày tỏ thực trạng đời mình một cách chân thật nhất. Đó là lúc chúng ta mở lòng mình ra hoàn toàn trước mặt Chúa, bày tỏ mọi niềm vui, nỗi buồn, mọi lo âu, mọi ước mơ.

Cầu nguyện là một hồng ân Chúa ban. Chính Chúa gặp gỡ mình hơn là mình gặp gỡ Chúa. Ngài luôn đi bước trước để tìm kiếm chúng ta, để chạm đến tâm hồn chúng ta. Cầu nguyện là một kết ước, một tương giao sống động với Thiên Chúa, là đáp lại tình thương của Chúa bằng tình yêu của mình. Đó là lắng nghe Chúa nói qua Lời Người, qua những biến cố cuộc đời, qua những người xung quanh. Là kề sát lòng bên cạnh lòng Chúa, tìm kiếm sự thân mật, sự bình an trong sự hiện diện của Người. Đó là đi tìm dung nhan Chúa, khao khát được nhìn thấy Người rõ hơn. Đó là yên lặng và vâng phục đức tin, khi chúng ta không hiểu, chúng ta vẫn tin tưởng vào ý Chúa. Đó là hợp tác với sự quan phòng của Thiên Chúa, để Người hành động trong cuộc đời chúng ta và qua chúng ta. Và cuối cùng, đó là nói với Chúa bằng lời của Chúa – chính Kinh Lạy Cha là lời của Chúa được ban cho chúng ta.

“Cứ xin thì sẽ được. Cứ tìm thì sẽ thấy. Cứ gõ cửa thì sẽ mở cho.” Lời Chúa nói đã trở thành một xác quyết, một lời hứa chắc chắn cho chúng ta. Chính vì vậy: Xin thì phải tin. Xin thì phải tin với cả tấm lòng, không nghi ngờ. Xin thì phải phó thác và hy vọng. Bởi lẽ Thiên Chúa là Chúa của tình thương, nên Ngài luôn muốn nhiều điều tốt lành cho con cái mình. Ngài không bao giờ ban điều xấu khi con cái xin điều tốt.

Tin tưởng vào Chúa. Hy vọng nơi Ngài. Để rồi, chúng ta cũng cầu xin Thiên Chúa cho mỗi người chúng ta biết bày tỏ lòng tin yêu Chúa qua việc cầu nguyện liên lỉ, kiên trì, và quan trọng hơn cả, qua cách phục vụ tha nhân tận tâm tận tình của chúng ta. Bởi vì, tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân là hai mặt của cùng một đồng tiền. Chúng ta yêu Chúa không chỉ bằng lời nói, mà bằng chính cách chúng ta sống cho Ngài và cho anh chị em mình.

Hôm nay, Chúa Giêsu không chỉ dạy chúng ta một công thức cầu nguyện, mà Ngài mời gọi chúng ta đi vào một mối tương quan sâu sắc, thân tình với Thiên Chúa là Cha. Ngài mời gọi chúng ta sống như những người con hiếu thảo, luôn biết tôn vinh danh Cha, nỗ lực sống để triều đại Cha mau đến, biết phó thác nhu cầu của mình vào sự quan phòng của Cha, biết tha thứ và sống hòa thuận với anh em, và luôn cậy dựa vào ơn Chúa để vượt qua mọi cám dỗ.

Hãy để lời Kinh Lạy Cha không chỉ là những lời chúng ta đọc mỗi ngày, mà là tiếng vọng từ trái tim người con thảo, tiếng Abba thân thương, vang vọng đến ngai Thiên Chúa. Hãy sống cuộc đời mình như một lời cầu nguyện liên lỉ, một cuộc đối thoại không ngừng với Cha, để mỗi hành động của chúng ta đều là lời ngợi khen, lời tạ ơn, và lời cầu xin.

Lạy Chúa,

Chúng con hết lòng cảm tạ Chúa vì hồng ân cao cả được gọi Chúa là Cha. Xin dạy chúng con biết cầu nguyện như Chúa đã dạy, với tất cả lòng tin yêu và phó thác. Xin giúp chúng con sống xứng đáng là con cái của Cha, để danh Cha luôn được rạng rỡ qua cuộc đời chúng con, và để triều đại Cha mau đến trên trần gian này. Xin cho chúng con luôn tin tưởng vào lòng thương xót của Cha, và không ngừng bày tỏ lòng tin yêu ấy qua cách chúng con cầu nguyện và phục vụ tha nhân.

 

Lm. Anmai, CSsR

 

 

CẦU NGUYỆN: TIN TƯỞNG TUYỆT ĐỐI TRONG VÒNG TAY CHA YÊU THƯƠNG

Trong cuộc sống này, không ai trong chúng ta tránh khỏi những khoảnh khắc bấp bênh, những biến cố bất ngờ khiến ta cảm thấy hoảng loạn, mất phương hướng. Có những lúc, ta như đứng trước một ngọn lửa bùng cháy dữ dội, không biết phải làm gì, không thấy lối thoát. Những khó khăn, thử thách ấy có thể là bệnh tật, mất mát, hay những khủng hoảng niềm tin khiến ta cảm thấy mình như đang chới với giữa hư không.

Trong bối cảnh ấy, câu chuyện về người cha trấn an đứa con nhỏ giữa căn nhà đang cháy, như bài chia sẻ đã kể, chạm đến tận sâu thẳm tâm hồn chúng ta:

“Giữa đêm khuya, một căn nhà ở nơi hẻo lánh bỗng bốc cháy. Trong cơn hoảng hốt, vợ chồng con cái đều thoát ra ngoài và bất lực đứng nhìn ngọn lửa. Rồi mọi người sực nhớ đứa con trai út mới lên năm vẫn còn bị kẹt trên gác. Phải làm gì đây? Không ai có thể đi vào được. Giữa lúc mọi người đang bấn loạn thì từ cánh cửa sổ trên gác, cậu bé thò đầu ra và kêu la thất thanh. Từ phía dưới, người cha nói với cậu: Con hãy nhảy xuống đi. Nhưng làm sao cậu bé dám làm theo lời cha, bởi vì nhìn xuống, cậu chỉ thấy khói và lửa. Cậu bé thốt lên trong tuyệt vọng: Làm sao con dám nhảy xuống vì không thấy ba. Thế nhưng người cha đã trấn an: Con không thấy ba nhưng ba thấy con. Con cứ nhảy xuống đi. Thế là với tất cả tin tưởng, cậu bé nhảy từ trên gác xuống và nằm gọn trong cánh tay của người cha.”

Câu chuyện này không chỉ là một minh họa cảm động về tình cha con. Nó là một dụ ngôn sống động về chính cuộc đời đức tin của chúng ta. Khi đối diện với “khói và lửa” của thử thách, chúng ta thường chỉ thấy những mối nguy hiểm, những điều tiêu cực mà không thấy được “người cha” đang ở dưới, đang dang tay đón đợi.

Hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau suy gẫm về ý nghĩa sâu sắc của câu chuyện này trong bối cảnh cầu nguyện. Chúng ta sẽ khám phá rằng, là con cái của Thiên Chúa, cho dầu chúng ta có rơi vào hoàn cảnh nào chăng nữa, chúng ta vẫn luôn rơi vào vòng tay của Thiên Chúa. Đó là tất cả Tin Mừng Chúa Giêsu đã đem đến trong thế gian.

“Con không thấy ba nhưng ba thấy con. Con cứ nhảy xuống đi.” Lời trấn an của người cha trong câu chuyện là chìa khóa mở ra mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa. Trong những khoảnh khắc đen tối nhất của cuộc đời, khi chúng ta cảm thấy cô độc, khi mọi thứ dường như sụp đổ và không còn hy vọng, chúng ta thường tự hỏi: Chúa ở đâu? Chúa có thấy con không?

 

Thiên Chúa luôn yêu thương con người, dù con người không biết Ngài, dù con người có khước từ và phản bội tình yêu của Ngài, Ngài vẫn một mực yêu thương. Đây là chân lý nền tảng của đức tin chúng ta. Tình yêu của Thiên Chúa không phụ thuộc vào công trạng hay sự đáp trả của chúng ta. Ngài yêu thương chúng ta trước, yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta là tội nhân.

Đó là tất cả những gì Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua cuộc sống của Ngài. Cách cư xử và cái chết của Ngài đã cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Cha yêu thương chúng ta.

Cuộc đời của Chúa Giêsu là một chuỗi liên tục của những hành động yêu thương: chữa lành người bệnh, xoa dịu nỗi đau, tha thứ tội lỗi, rao giảng Tin Mừng cứu độ. Ngài đã đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì đã hư mất, để mang những người con lạc về với Cha.

Cái chết của Ngài trên Thập giá là minh chứng cao cả nhất cho tình yêu này. Ngài đã không ngần ngại hiến dâng mạng sống mình để chuộc tội cho nhân loại, để nối kết chúng ta lại với Cha. Dù phải chịu khổ hình nhục nhã, Ngài vẫn cầu nguyện cho những kẻ đóng đinh mình.

Giống như cậu bé giữa khói lửa, chúng ta thường chỉ nhìn thấy những điều kinh hoàng, những mối đe dọa trước mắt. Khói và lửa tượng trưng cho sự sợ hãi, cho những nghi ngờ che mờ tầm nhìn của đức tin. Chúng ta không thấy “ba”, không thấy bàn tay yêu thương của Thiên Chúa đang dang ra.

Tuy nhiên, lời trấn an “Con không thấy ba nhưng ba thấy con” là một lời mời gọi vượt qua nỗi sợ hãi bằng niềm tin. Thiên Chúa luôn hiện diện, luôn dõi theo chúng ta, ngay cả khi chúng ta không cảm nhận được sự hiện diện của Ngài. Ngài nhìn thấy chúng ta trong mọi hoàn cảnh, Ngài biết mọi nỗi sợ hãi, mọi gánh nặng của chúng ta. Niềm tin không phải là nhìn thấy mọi thứ rõ ràng, mà là tin tưởng vào Đấng mà ta không thấy, tin vào tình yêu và quyền năng của Ngài.

Đồng thời Chúa Giêsu cũng dạy cho chúng ta cách thức đáp trả tình yêu của Thiên Chúa, đó là hãy chu toàn thánh ý của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta một cách vô điều kiện, thì đáp trả của chúng ta phải là gì? Đó không phải là những lễ vật xa hoa, những công việc vĩ đại, mà là một trái tim biết vâng phục, biết “xin vâng” theo thánh ý Ngài.

Lời kinh Lạy Cha Ngài để lại cho Giáo Hội chính là chương trình sống của Ngài, chính là tiếng xin vâng của Ngài đối với Chúa Cha. Kinh Lạy Cha không chỉ là một công thức cầu nguyện để chúng ta lặp lại, mà là một lối sống, một thái độ của tâm hồn. Mỗi lời trong Kinh Lạy Cha đều phản ánh chính cuộc đời và tâm tình của Chúa Giêsu:

“Cha chúng con ở trên trời”: Sự nhận biết Thiên Chúa là Cha, Đấng yêu thương và quan phòng.

“Danh Cha cả sáng”: Ưu tiên vinh quang của Thiên Chúa trên hết mọi sự.

“Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”: Sự vâng phục tuyệt đối ý muốn của Cha.

“Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”: Sự tín thác vào sự quan phòng của Cha cho những nhu cầu thiết yếu.

“Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”: Sống tình yêu thương và tha thứ như Cha đã yêu thương và tha thứ.

“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”: Sự nhận biết yếu đuối và xin Cha bảo vệ.

Từ sáng đến chiều, xuyên qua những giao tiếp và giảng dạy, Ngài luôn để lộ một cử chỉ duy nhất, đó là thuộc trọn về Chúa Cha, tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu của Chúa Cha. Mọi hành động, mọi lời nói của Chúa Giêsu đều xuất phát từ mối tương quan thân mật với Cha, và đều hướng về việc thực thi thánh ý Cha. Ngài đã sống trọn vẹn lời “xin vâng” của mình.

Do đó, cầu nguyện không có nghĩa là đọc lại một câu kinh một cách máy móc, mà chính là đi vào tâm tình và cuộc sống của Chúa Giêsu. Đó là trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài trong sự vâng phục ý Cha, trong sự tín thác tuyệt đối, và trong tình yêu thương quảng đại.

Một người tín hữu luôn chu toàn thánh ý Thiên Chúa và luôn sống với hai chữ xin vâng hằng sẽ không ngừng kêu lên: Đây là tiếng lòng của một tâm hồn đã thực sự hiểu ý nghĩa của cầu nguyện. Khi chúng ta thực sự vâng phục ý Chúa, chúng ta sẽ nhận ra rằng những gì Chúa ban, dù không phải điều chúng ta xin, nhưng luôn là điều tốt nhất cho chúng ta.

Khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta thường có những ước nguyện cụ thể. Đôi khi, những ước nguyện đó không được thành hiện thực theo cách chúng ta mong muốn. Điều này có thể dẫn đến sự thất vọng, thậm chí là hoài nghi.

Một người tín hữu sống tinh thần xin vâng sẽ nói:

Tôi đã cầu xin được khoẻ mạnh để làm những điều vĩ đại, thế nhưng Chúa lại ban cho tôi những bệnh tật để tôi làm những việc tốt hơn. Đây là một sự biến đổi nhận thức đáng kinh ngạc. Trong mắt thế gian, bệnh tật là sự bất hạnh, là giới hạn. Nhưng với cái nhìn của đức tin, bệnh tật có thể trở thành phương tiện để làm những “việc tốt hơn”: học kiên nhẫn, học phó thác, học cảm thông với người đau khổ, và nhận ra giá trị của sự sống. Nhiều vị thánh đã được nên thánh chính nhờ những bệnh tật triền miên.

Tôi đã xin giàu sang để được hạnh phúc, thế nhưng Chúa đã ban cho tôi sự nghèo khó để tôi được khôn ngoan hơn. Giàu sang thường được đồng nghĩa với hạnh phúc trong xã hội hiện đại. Nhưng nhiều người giàu có lại không tìm thấy hạnh phúc đích thực. Ngược lại, sự nghèo khó, nếu được đón nhận trong tinh thần vâng phục và tín thác, có thể dẫn đến sự khôn ngoan đích thực: sự hiểu biết về giá trị thực của cuộc sống, sự giải thoát khỏi những ràng buộc vật chất, và sự phụ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa.

Tôi đã không nhận được điều tôi kêu cầu, nhưng tôi nhận được niềm hy vọng. Đây là một sự thật sâu sắc về kết quả của cầu nguyện đích thực. Khi chúng ta cầu nguyện, không phải lúc nào điều chúng ta xin cũng được ban theo đúng ý mình. Nhưng điều chúng ta luôn nhận được, nếu chúng ta cầu nguyện với lòng tin và sự phó thác, đó là niềm hy vọng. Niềm hy vọng này là một ân huệ cao quý, giúp chúng ta vượt qua mọi thất vọng và tiếp tục tin tưởng vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.

Và điều kỳ diệu hơn nữa: Những lời cầu xin mà tôi chưa từng thốt lên, tất cả đều được nhận lời. Bởi vì tất cả đều là hồng ân của Chúa. Điều này có nghĩa là Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi Ngài biết rõ mọi nhu cầu của chúng ta, ngay cả những nhu cầu mà chúng ta chưa nhận ra hoặc chưa dám thốt lên. Ngài ban cho chúng ta những hồng ân vượt quá mọi sự mong đợi, những hồng ân mà chúng ta không dám xin, hoặc chưa từng nghĩ đến. Đó là những ơn ích thiêng liêng, những sự sắp đặt nhiệm mầu trong cuộc đời chúng ta mà chỉ sau này, khi nhìn lại, chúng ta mới nhận ra đó là bàn tay yêu thương của Chúa.

Điều này đòi hỏi một cái nhìn của đức tin, một sự nhôn nhịn và một lòng biết ơn đối với Thiên Chúa, Đấng luôn ban những điều tốt lành nhất cho con cái mình.

Lời Chúa hôm nay và những suy niệm sâu sắc chúng ta vừa chiêm nghiệm mời gọi chúng ta nhìn lại đời sống cầu nguyện của mình. Cầu nguyện không chỉ là một nghi thức hay một công thức, mà là một mối tương quan sống động với Thiên Chúa Cha, là sự tín thác tuyệt đối vào vòng tay yêu thương của Ngài, ngay cả khi chúng ta không thể nhìn thấy “ba” trong khói và lửa của cuộc đời.

Hãy xin Chúa ban cho chúng ta ân sủng để luôn sống trong tâm tình của một người con thảo, luôn biết chu toàn thánh ý Chúa Cha với hai chữ “xin vâng” như chính Chúa Giêsu. Xin cho chúng ta có đủ đức tin và sự kiên trì để gõ cửa giữa đêm khuya, tin tưởng rằng Thiên Chúa luôn lắng nghe và sẽ ban cho chúng ta những ơn lành tốt nhất, dù đó có thể không phải là điều chúng ta đã xin.

Ước gì mỗi hơi thở của chúng ta đều là một lời cầu nguyện, một sự biểu lộ lòng tin cậy và phó thác. Để rồi, chúng ta có thể cảm nhận được rằng, dù ở trong hoàn cảnh nào chăng nữa, chúng ta vẫn luôn nằm gọn trong cánh tay yêu thương của Thiên Chúa, và cuộc đời chúng ta sẽ tràn ngập những hồng ân mà chúng ta chưa từng dám thốt lên. Amen.

Lm. Anmai, CSsR

 

 

Cầu Nguyện: Lẽ Sống và Tình Yêu của Thiên Chúa

Cầu nguyện là một nhu cầu sâu sắc, một khát vọng tự nhiên khắc sâu trong tâm hồn con người. Nó không chỉ là một hành vi tôn giáo, mà còn là biểu hiện cao cả nhất của nhân tính, định hình giá trị và bản chất con người. Trong Kitô giáo, lời kinh “Lạy Cha” (Lc 11:2) trở thành tâm điểm, nơi tinh túy của đức tin được kết tinh. Qua lời kinh này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta bước vào mối tương quan thân mật với Thiên Chúa, Đấng không chỉ là Đấng Tạo Hóa mà còn là Cha nhân từ, luôn yêu thương và quan tâm đến con cái mình. Cầu nguyện, vì thế, không chỉ là một hành động, mà là lẽ sống, là nhịp thở của đời Kitô hữu.

Chúa Giêsu, khi dạy các môn đệ cầu nguyện, không chỉ trao cho họ một công thức, mà còn dẫn họ vào một mối tương giao sâu sắc với Chúa Cha. Lời kinh “Lạy Cha” mở ra một chân trời mới, nơi con người được mời gọi gọi Thiên Chúa bằng danh xưng thân mật nhất: “Cha.” Điều này cho thấy Thiên Chúa không xa cách hay lạnh lùng. Sự thánh thiện của Ngài không tạo nên một bức tường ngăn cách, mà ngược lại, trở thành ánh sáng soi chiếu, kéo con người đến gần Ngài hơn. Quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa không làm Ngài trở nên độc đoán, mà khiến Ngài cúi xuống, lắng nghe những nhu cầu, những đau khổ của nhân loại. Vấn đề không nằm ở chỗ Thiên Chúa có sẵn sàng lắng nghe hay không, mà là ở chỗ con người có đủ can đảm để thưa “Lạy Cha” với Đấng Tạo Hóa của mình hay không. Càng gần gũi Thiên Chúa, con người càng được thánh hóa, bởi “danh Ngài thật chí thánh chí tôn” (Lc 1:49). Sự thánh thiện của chúng ta không chỉ là phần thưởng cho chính mình, mà còn là cách để làm rạng danh Thiên Chúa, phản chiếu vinh quang của Ngài.

Lời kinh “Lạy Cha” mang một chiều kích cánh chung, hướng về ngày triều đại Thiên Chúa được hoàn tất. Khi cầu xin “Triều đại Cha mau đến” (Lc 11:2), chúng ta không chỉ mong chờ một tương lai xa xôi, mà còn khát khao ơn cứu độ được thể hiện ngay trong hiện tại. Chiều kích cánh chung này gắn bó chặt chẽ với những nhu cầu thực tiễn của cuộc sống hôm nay. Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu xin: “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy” (Lc 11:3). Lời cầu xin này cho thấy đức tin Kitô giáo không tách rời khỏi thực tế. Niềm tin không chỉ hướng về những thực tại siêu nhiên, mà còn quan tâm đến những nhu cầu cụ thể của con người, từ miếng cơm manh áo đến những khát vọng sâu xa của tâm hồn. Cầu xin lương thực hằng ngày là một hành vi của lòng tin, nhìn nhận rằng mọi sự chúng ta có đều đến từ lòng từ bi và quyền năng của Thiên Chúa.

Nhưng lương thực hằng ngày không chỉ giới hạn ở những nhu cầu vật chất. Để bước vào triều đại Thiên Chúa, con người cần một thứ lương thực vượt trên mọi giới hạn trần thế: đó là Thánh Thể, lương thực thiêng liêng chuẩn bị chúng ta cho tiệc cánh chung. Thánh Thể là “lương thực tương lai,” giúp chúng ta nếm trước niềm vui của Nước Trời ngay trong cuộc sống hiện tại. Nếu chỉ có lương thực vật chất, con người sẽ không thể vượt qua những giới hạn của kiếp sống tạm thời để hướng đến hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng với Thánh Thể, chúng ta được nuôi dưỡng bởi chính tình yêu của Thiên Chúa, được mời gọi sống trong sự hiệp thông sâu xa với Ngài. Qua đó, Thiên Chúa cho thấy Ngài không chỉ lo lắng cho những nhu cầu trước mắt, mà còn chuẩn bị cho chúng ta một tương lai vinh quang trong Ngài.

Tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện rõ ràng qua cách Ngài chăm sóc con người. Chúa Giêsu khẳng định: “Nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Lc 11:13). Lời quả quyết này là một lời mời gọi đức tin. Chỉ những ai tin mới có thể nhận ra rằng Thiên Chúa, như một người Cha, luôn quan tâm đến từng chi tiết nhỏ bé trong cuộc sống của chúng ta. Ngài không chỉ ban lương thực vật chất, mà còn ban Thánh Thần, Đấng là nguồn sức mạnh và sự sống, để dẫn dắt chúng ta trên hành trình đức tin. Thánh Thần là bằng chứng sống động của tình yêu Thiên Chúa, là bảo đảm rằng Ngài luôn đồng hành cùng chúng ta, ngay cả trong những thử thách lớn nhất.

Tình yêu của Thiên Chúa không chỉ dừng lại ở việc ban lương thực hay Thánh Thần, mà còn được biểu lộ qua ơn tha thứ. Trong kinh “Lạy Cha,” Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu xin: “Xin tha tội cho chúng con” (Lc 11:4). Lời cầu xin này chạm đến cốt lõi của ơn cứu độ, bởi nếu không được tha thứ, con người vẫn bị tách rời khỏi Thiên Chúa. Tội lỗi là bức tường ngăn cách chúng ta với sự thánh thiện của Ngài, làm mất đi bình an và hạnh phúc trong tâm hồn. Nhưng Thiên Chúa, trong lòng thương xót vô biên, đã giao hòa chúng ta với Ngài qua Đức Giêsu Kitô. Thánh Phaolô khẳng định: “Thiên Chúa đã cho anh em được cùng sống với Đức Kitô” (Cl 2:13), nghĩa là Ngài đã tha thứ mọi lỗi lầm để chúng ta được sống trong sự hiệp thông với Ngài. Ơn tha thứ là món quà cao cả, là dấu chỉ rõ ràng nhất của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại.

Tuy nhiên, lời cầu xin tha thứ không chỉ là một hành vi đơn phương. Chúa Giêsu dạy chúng ta tiếp tục thưa: “Vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con” (Lc 11:4). Lời cầu nguyện này cho thấy một mối liên đới sâu sắc giữa Thiên Chúa và con người, giữa con người với nhau. Chúng ta không thể xin Thiên Chúa tha thứ nếu chính mình không sẵn lòng tha thứ cho anh em. Tha thứ là một hành vi của tình yêu, là cách chúng ta phản chiếu lòng thương xót của Thiên Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Những tương quan phức tạp trong đời sống cộng đoàn – từ những hiểu lầm nhỏ nhặt đến những tổn thương sâu sắc – đều trở thành cơ hội để chúng ta sống tinh thần của kinh “Lạy Cha.” Tha thứ không chỉ giải phóng người khác, mà còn giải phóng chính chúng ta, giúp chúng ta tìm lại bình an và niềm vui trong mối tương quan với Thiên Chúa và tha nhân.

Cầu nguyện không chỉ là lời xin ơn, mà còn là một hành trình chiến đấu với những thử thách và cám dỗ. Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu xin: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ” (Lc 11:4). Hành trình đức tin là một hành trình đầy hiểm nguy, nơi con người phải đối diện với những cám dỗ của thế gian và sự yếu đuối của bản thân. Để vượt qua, chúng ta cần sức mạnh của Thiên Chúa, được ban qua Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô nhắc nhở rằng chúng ta đã “cùng được mai táng với Đức Kitô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi dậy với Người” (Cl 2:12). Sự trỗi dậy này không chỉ là một biến cố trong quá khứ, mà là một thực tại sống động, giúp chúng ta thoát khỏi ách tử thần và bước vào sự sống vĩnh cửu. Thánh Thần là nguồn sức mạnh, là bảo đảm rằng chúng ta không đơn độc trên hành trình này.

Để lãnh nhận Thánh Thần, cầu nguyện kiên trì là điều không thể thiếu. Tuy nhiên, cầu nguyện không phải lúc nào cũng mang lại kết quả tức thì. Có những lời cầu xin kéo dài hàng năm, thậm chí hàng thập kỷ, đòi hỏi sự kiên nhẫn và lòng tin. Câu chuyện của thánh nữ Monica là một minh chứng sống động. Bà đã cầu nguyện không ngừng nghỉ cho người con trai Augustinô, và cuối cùng, nhờ ơn Chúa, bà đã chứng kiến sự hoán cải kỳ diệu của con mình. Dụ ngôn về người bạn quấy rầy trong Tin Mừng (Lc 11:5-8) nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa không bao giờ làm ngơ trước lời cầu xin khẩn thiết của con cái Ngài. Tình yêu của Ngài vượt xa tình yêu của bất kỳ người cha trần gian nào, và Ngài luôn sẵn sàng ban ơn cho những ai kiên trì kêu cầu.

Giáo hội tiên khởi đã sống tinh thần cầu nguyện này một cách mãnh liệt. Các tông đồ, cùng với Đức Maria, đã hợp lực cầu xin Chúa sai Thánh Thần trong những ngày chờ đợi biến cố Hiện Xuống. Họ tin tưởng tuyệt đối vào lời Chúa Giêsu: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11:9). Sự công chính của họ, được xây dựng trên đức tin và lòng trung thành, đã khiến lời cầu nguyện của họ trở nên mạnh mẽ. Từ thời Abraham, chúng ta đã thấy sức mạnh của lời cầu nguyện công chính. Abraham đã “mặc cả” với Thiên Chúa để cứu thành Xơđôm, từ năm mươi người lành xuống còn mười người, và Thiên Chúa đã lắng nghe. Ngày nay, chúng ta còn có một “thế lực” lớn hơn: giá máu của Đức Giêsu, Đấng Công Chính. Nhờ Ngài, chúng ta có thể mạnh dạn dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa, biết rằng Ngài luôn lắng nghe và đáp lời.

Cầu nguyện, vì thế, không chỉ là một hành vi, mà là một lối sống, một sự hiệp thông liên lỉ với Thiên Chúa. Nó giúp chúng ta nhận ra rằng mọi sự trong cuộc đời – từ những nhu cầu vật chất đến những khát vọng thiêng liêng – đều nằm trong bàn tay yêu thương của Cha trên trời. Lời kinh “Lạy Cha” không chỉ là một lời cầu nguyện, mà là một lời tuyên xưng đức tin, một lời mời gọi chúng ta sống trọn vẹn trong tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta, qua việc cầu nguyện kiên trì, biết mở lòng đón nhận Thánh Thần, sống tinh thần tha thứ, và bước đi trong ánh sáng của triều đại Thiên Chúa, ngay hôm nay và mãi mãi.

 

Back To Top