skip to Main Content

Chúa Nhật Tuần XV – Mùa Thường Niên – Lm. Anmai, CSsR

Tin Mừng

Lc 10,25-37

Ai là người thân cận của tôi ?

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.

25 Khi ấy, có người thông luật kia muốn thử Đức Giê-su mới đứng lên hỏi Người rằng : “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp ?” 26 Người đáp : “Trong Luật đã viết gì ? Ông đọc thế nào ?” 27 Ông ấy thưa : “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.” 28 Đức Giê-su bảo ông ta : “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống.”

29 Tuy nhiên, ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng : “Nhưng ai là người thân cận của tôi ?” 30 Đức Giê-su đáp : “Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. 31 Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy nạn nhân, ông tránh qua bên kia mà đi. 32 Rồi một thầy Lê-vi đi tới chỗ ấy, thấy thế, cũng tránh qua bên kia mà đi. 33 Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới chỗ nạn nhân, thấy vậy thì động lòng thương. 34 Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu xức vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. 35 Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói : “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.” 36 Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp ?” 37 Người thông luật trả lời : “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy.” Đức Giê-su bảo ông ta : “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.”

SỐNG LÒNG THƯƠNG XÓT

Con người, chẳng hiểu tự bao giờ mà cái máu của ích kỷ, của ghen tương, của thù hận nó xen vào. Ai cũng biết ích kỷ, ghen tương, không biết cảm thương ấy là không tốt nhưng rồi cũng chẳng hiểu sao người ta cứ để cho cái nồng độ của ích kỷ, của ghen tương tăng lên dần dần trong đời sống thường ngày.

Đời sống con người có lúc này lúc khác, lúc sung túc và lúc ngặt nghèo. Lúc sung túc người ta cũng chia sẻ nhưng hình như không bằng lúc người ta ngặt nghèo. Cuộc sống người ta dù có nghèo đi chăng nữa những khi gặp những người khó khăn hơn thì họ dễ chia sẻ hơn là khi người ta giàu có.

Tâm lý thường thì người ta chia sẻ cho những người thân cận, đồng vai đồng vế, đồng hàng đồng xóm với họ chứ ít bao giờ họ nghĩ đến chia sẻ cho những người xa lạ. Đi xa hơn một chút nữa, để chia sẻ cho những người mà ta tạm gọi họ là người không đồng tình đồng ý hay là người đối nghịch với ta thì càng khó hơn nữa.

Vì tâm lý thường là như vậy nên khi người ta chia sẻ với những người thân thuộc, đồng vai đồng vế thì họ cũng tự nhủ rằng họ làm như thế là tốt lắm rồi nhưng Chúa Giêsu mời gọi con người đi một bước xa hơn cái bước bình thường đó là thương những người không cùng lập trường với mình, những người đối lập với mình. Lời mời gọi ấy thật sự là khó. Lời mời gọi ấy được Thánh Luca ghi lại qua câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể.

Chúa Giêsu là nhà giáo dục tài ba, Ngài hết sức tinh tế khi muốn dạy, muốn khuyên, muốn bảo những người nghe Ngài giảng dạy. Chuyện dụ ngôn là câu chuyện hết sức gần gụi và hết sức thực tế. Chuyện dụ ngôn không ám chỉ riêng tư một cá nhân, một tập thể nào cả nhưng chỉ nói chung chung. Với cách nói chung chung đó sẽ làm giảm đi phần nào đụng chạm, phần nào tự ái của người, của nhóm người được nói đến.

Dụ ngôn người Samaria nhân hậu này hết sức quen thuộc với mỗi người kitô hữu. Chúa Giêsu nói là một người kia chứ không nói người đó tên gì, nhà ở đâu. Người kia đó đi đường từ Giêrusalem xuống Giêricô đi công chuyện, đi đám cưới hay đi đám tiệc gì đó không rõ. Chuyện đáng tiếc là người này gặp cướp giữa đường. Chắc là đoạn đường Giêrusalem xuống Giêricô vắng vẻ lắm nên người khách mới ra nông nổi này. Giá như người này chết thì chẳng còn chuyện gì đển nói nhưng người này dở sống dở chết. Sống cũng chẳng ra sống mà chết cũng chẳng ra chết mới oan nghiệt. Giá mà chết thì khoẻ còn sống mà chẳng làm được gì, kêu cũng chẳng được mà la cũng chẳng xong.

Câu chuyện hết sức hấp dẫn ở cái chổ là có thầy tư tế đi ngang qua nhưng cũng bỏ đi luôn. Và rồi, đến một thầy Lêvi cũng đi ngang nhưng ông thầy này tiếp tục cái cảnh “nhắm mắt làm ngơ”. Hai ông thầy đi qua và rồi một người Samari cũng đi qua đó. Thế nhưng, điều hết sức kinh ngạc, hết sức tuyệt vời đó là người Samari này đã lấy rượu để rửa vết thương, năng bó vết thương. Khi bị tai nạn, được làm như thế quả là có phúc lắm rồi nhưng người này lại có phúc hơn nữa khi mà người Samari này còn cho lên lưng lừa và đem đến quán trọ. Không chỉ đưa đến quán trọ mà còn trao tiền cho chủ quán chăm sóc. Hơn điều mà mọi người nghĩ đó lại là còn hứa là sau khi đi công chuyện về ông sẽ thanh toán phần còn lại. Tuyệt vời, hết sức tuyệt vời nơi con người Samari này.

Câu chuyện đẹp không chỉ dừng ở chỗ này mà còn đẹp hơn, ý nghĩa hơn khi người Samari và người Do Thái ngày xưa kình địch nhau, không đội trời chung với nhau. Nét đẹp của người Samari là họ đã vượt qua cái ranh giới hận thù, chia rẽ của lòng người để toả lòng thương cảm đến người bị tai nạn.

Câu chuyện này cũng đáng lưu ý nơi hình ảnh của hai ông thầy là thầy tư tế và thầy Lêvi. Hẳn ông ta có ăn, có học hơn cái người Samaria kia nhưng lòng của ông ta đã khép lại trước con người bị tai nạn. Chúa Giêsu không hề đề cập đến bằng cấp, địa vị, thân thế sự nghiệp của người Samari, Chúa Giêsu chỉ đề cập đến tấm lòng nhân hậu của người Samari dành cho người bị nạn mà là người đó lại là người ở phe đối lập của mình.

Hình ảnh của người Samaria nhân hậu hết sức dễ thương. Làm sao ông có thể làm được cái điều mà người đời khó làm này? Chắc có lẽ trong đời thường của ông, ông đã cảm nhận được tình thương từ ơn trên dành cho đời của ông nên ông đã làm như thế với anh chị em đồng loại và anh chị em đồng loại ấy không phân biệt là kẻ ghét người thương.

Đáng trách chăng đó là hai ông thầy. Hai ông thầy được ăn được học nhất là được hòng về lòng thương xót của Thiên Chúa. Bài học về lòng thương xót ấy đã được mời gọi trong suốt dòng chảy của lịch sử cứu độ. Thiên Chúa mời gọi con người giản đơn ở cái chuyện mến Chúa và yêu người. Mệnh lệnh Chúa gửi đến cho con người có như vậy thôi.

Mệnh lệnh đó, chúng ta vừa nghe Thánh Phaolô nhắc qua thư của Ngài gửi tín hữu Côlôsê. Ngài mời gọi tín hữu Côlôsê cũng như mọi người chúng ta là khi chúng ta nghe tiếng Chúa thì chúng ta giữ những mệnh lệnh, những thánh chỉ của Ngài trong sách Luật. Ngài nhắc cho chúng ta mệnh lệnh ấy nó nằm trong lòng bàn tay của mọi người. Mệnh lệnh ấy gần và rất gần. Mệnh lệnh ấy ngay trong miệng, trong lòng của chúng ta và chúng ta hết sức dễ để đem ra thực hành.

Lời của Chúa Giêsu dạy trong dụ ngôn hết sức tế nhị. Chúa Giêsu không bắt người thông luật làm như mệnh lệnh của Chúa nhưng Chúa Giêsu mời gọi người thông luật thực thi điều mà chính ông đề ra: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy.” Chúa Giê-su bảo ông ta: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.”

Trang Tin mừng này kết thúc một cách bỏ ngõ. Thánh Luca không hề viết thêm cho độc giả rằng người thông luật đó đã làm gì, đã sống như thế nào sau khi nghe lời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng đã mở ngõ cho nhà thông luật: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”.

Ngày hôm nay, Chúa Giêsu cũng mở ngõ cho mỗi người chúng ta. Chắc chắn khi nghe dụ ngôn ấy xong và sau khi nghe Chúa Giêsu chất vấn chúng ta cũng sẽ trả lời như nhà thông luật đó là thực thi lòng thương xót với người ấy. Thế nhưng, nhìn vào thực tế của cuộc sống, hình như chúng ta khiếm khuyết lòng thương xót anh chị em đồng loại. Lý do khiếm khuyết đó là vì chúng ta đã không lắng đọng tâm hồn, lắng đọng cõi lòng của chúng ta. Nếu chúng ta lắng đọng tâm hồn, chúng ta để cho lòng chúng ta lắng xuống chúng ta sẽ thấy được chúng ta hạnh phúc và Chúa thương chúng ta nhiều. Khi và chỉ khi chúng ta nhìn thấy tận căn lòng Chúa thương xót thì chúng ta mới có thể thương xót anh chị em đồng loại chúng ta được.

Chúng ta vẫn bị những rào cản của vật chất, của quyền lợi để rồi chúng ta không thấy Chúa hiện diện trong cuộc đời của chúng ta. Chúng ta hãy xin với Chúa Giêsu ban cho chúng ta con mắt đức tin để chúng ta thấy lòng Chúa thương xót chúng ta để chúng ta có thể thương xót anh chị em đồng loại như lòng Chúa mong muốn.

Lm. Anmai, CSsR

NGƯỜI THÂN CẬN CỦA TÔI: LỜI KÊU GỌI SỐNG TÌNH YÊU THỰC TẾ

Hôm nay, Tin Mừng theo Thánh Luca (Lc 10, 25-37) trình bày cho chúng ta một dụ ngôn kinh điển của Chúa Giêsu: Dụ ngôn “Người Sa-ma-ri tốt lành”. Dụ ngôn này được Chúa kể ra không phải ngẫu nhiên, mà là để trả lời cho một câu hỏi đầy tính chất gài bẫy của một chàng luật sư: “Ai là người thân cận của tôi?” (Lc 10, 29). Chàng luật sư này, có lẽ vì thấy Chúa Giêsu ăn nói khôn ngoan, tinh thông mọi điều, đã muốn thử thách sự hiểu biết của Ngài, đặc biệt là về Lề Luật Do Thái giáo vốn đã giới hạn sự giao tiếp giữa người Do Thái với những người không phải là đồng bào mình.

Chúa Giêsu thấu hiểu tâm can của chàng luật sư. Ngài nhận ra rằng anh ta chưa sống đời mình một cách thực tế, vẫn còn chờ đợi, còn phân vân xem ai mới thực sự là “người thân cận” của mình để rồi mới bày tỏ tình yêu thương và giúp đỡ. Với mục đích làm sáng tỏ một chân lý sâu sắc, Chúa Giêsu đã kể một câu chuyện hết sức sống động:

Một người đi đường từ Giêrusalem xuống Giêricô, một con đường nổi tiếng nguy hiểm. Chẳng may, anh ta bị kẻ cướp tấn công, lấy hết đồ dùng, quần áo, đánh cho nửa sống nửa chết, rồi bỏ mặc nằm lăn lóc bên đường. Kế tiếp, một thầy tư tế đi qua. Đây là một vị có địa vị cao trong xã hội và tôn giáo Do Thái thời bấy giờ. Ông ta nhìn thấy nạn nhân, nhưng lại tránh sang một bên và thản nhiên tiếp tục con đường của mình. Sau đó, một thầy trợ tế cũng đi qua, nhìn thấy cảnh tượng thương tâm, nhưng cũng làm y hệt. Cả hai vị này, những người được kính trọng, được cho là gần gũi với Thiên Chúa và Lề Luật, lại chọn cách bỏ qua một mạng người đang hấp hối.

Trái ngược với họ, một người xứ Sa-ma-ri xuất hiện. Trong bối cảnh lịch sử bấy giờ, người Sa-ma-ri và người Giuđa là những kẻ thù cay đắng của nhau do nạn Nam-Bắc phân tranh và những khác biệt về niềm tin. Người Do Thái xem người Sa-ma-ri là công dân hạng hai, hạng ba, thậm chí là ô uế vì không còn giữ được dòng máu thuần khiết Do Thái. Thế nhưng, chính người Sa-ma-ri này, một người bị kỳ thị, lại là người đã dừng lại. Anh ta đã hết lòng tận tình săn sóc nạn nhân người Giuđa, băng bó vết thương, đưa đến quán trọ, và còn hứa sẽ chi trả thêm chi phí nếu cần.

Kể xong câu chuyện, Chúa Giêsu long trọng hỏi lại chàng luật sư: “Vậy theo ông, ai trong ba người đó đã tỏ ra là người thân cận của người bị rơi vào tay bọn cướp?” (Lc 10, 36). Dĩ nhiên, câu trả lời không thể là ai khác ngoài người Sa-ma-ri đã tỏ lòng thương xót và giúp đỡ. Và Chúa Giêsu đã kết luận cuộc đối thoại bằng một câu nói đáng giá ngàn vàng: “Vậy ông hãy đi và làm như thế” (Lc 10, 37).

Đây là một lời mời gọi đầy tính thực tế và khẩn trương. Đừng ngồi đó mà hỏi ai là anh chị em tôi để tôi yêu mến, để tôi lo lắng, để tôi săn sóc. Mà trước tiên, hãy sống tỏ ra mình là người anh chị em của mọi người trước đã. Khả năng tỏ ra tình huynh đệ với người khác nằm ngay trong tay của mỗi chúng ta. Đừng chờ đợi, đừng trì hoãn, mà hãy thực hành ngay lập tức. Tình yêu không phải là một lý thuyết hay một khái niệm trừu tượng, mà là một hành động cụ thể.

Chàng luật sư đại diện cho luật cũ, luật dựa trên nhân bản, lấy con người của mình làm tiêu chuẩn để cư xử: “Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và người thân cận như chính mình” (Lc 10, 27). Xét về mặt công bằng xã hội, việc chúng ta tôn trọng nhân vị của người khác như chính bản thân mình là một điều vô cùng tốt đẹp và cần thiết. Sách Giáo Lý Công Giáo cũng dạy rất rõ: “Mỗi người hãy coi tha nhân, không trừ một ai như chính bản thân mình” (GLCG số 1931).

Tuy nhiên, đối với Chúa Giêsu, Ngài đã không chỉ dừng lại ở đó. Dựa trên tinh thần đạo đức siêu nhiên, Ngài đã bổ túc luật cũ, nâng tầm tiêu chuẩn hành động của chúng ta lên một bậc cao hơn, lấy Thiên Chúa làm tiêu chuẩn: “Đây là điều răn của Thầy: ‘Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con'” (Ga 15, 12; 13, 34). Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế Lumen Gentium đoạn 40 cũng nhắc nhở: “Bởi vậy, Người đã sai Thánh Thần đến với mọi người, để từ bên trong Ngài thôi thúc họ yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn cùng hết sức họ (Mc 12,30) và yêu thương nhau như Chúa Kitô yêu thương họ” (Ga 15, 12; 13, 34).

Chúa Giêsu không chỉ dạy về sự chạnh lòng thương, mà chính Ngài là hiện thân của lòng thương xót. Chính Ngài đã đóng vai trò của người Sa-ma-ri tốt lành. Nhân loại chúng ta là những nạn nhân bị đánh đập, cướp bóc, bị thương tích nửa sống nửa chết, bị bỏ rơi dọc đường trên cuộc hành trình tìm về sự sống vĩnh cửu. Tình yêu thương, sự chạnh lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa được thể hiện cách trọn vẹn và cụ thể nhất qua việc Nhập Thể của Ngài. Ngài đã mang lấy thân phận làm người, cùng chịu đau khổ, chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta. Chúa Giêsu đã đến gần chúng ta, săn sóc và lo lắng cho chúng ta. Ngài từ phía trời cao, xuống thế, và tự đặt mình vào trong hoàn cảnh của chúng ta. Chính Ngài là người hàng xóm đã chạnh lòng thương chúng ta.

Mặt khác, chính Người cũng là nạn nhân của nhân loại, đã bị đánh đập tàn nhẫn và chết thê lương trên thập giá mà không có ai cứu chữa (Mc 15, 34). Chúa Giêsu là Người tôi tớ rao giảng sự công chính, như con chiên bị sát tế cách bất công (Cv 8, 32; Is 50, 6). Ngài đã đặt ra một thử thách lớn đối với những người đồng hương Do Thái của Ngài, và qua đó, cũng muốn nói với chúng ta ngày nay rằng: “Mỗi người ở một lúc nào đó đều là thân cận, bởi mỗi người sẽ có lúc cần phải được giúp đỡ, ngay cả kẻ thù đáng ghét nhất của bạn. Hãy biểu tỏ lòng thương xót – chạnh lòng thương – qua việc phục vụ cho bất cứ ai đang cần giúp đỡ.”

Lời Chúa hôm nay là một lời mời gọi thực tế, đòi hỏi chúng ta phải sống và tạ ơn vì những gì Chúa đã ban, phải vâng theo những lề luật yêu thương mà Chúa đã ghi khắc trong tâm hồn và dạy chúng ta tuân giữ.

Hằng ngày, trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta sẽ luôn gặp gỡ những người cô đơn, bị bỏ rơi, thiếu tình thương và chăm sóc. Có thể là người hàng xóm bị ngược đãi, người bạn đang thất vọng, chán nản, hay người đang mặc cảm tội lỗi. Họ đang kêu cứu trong tâm hồn, như lời trong bài đáp ca hôm nay: “Tôi buồn sầu và đớn đau”. Chúng ta đừng bỏ qua họ. Hãy dừng lại và giúp họ.

Có rất nhiều cách để chúng ta có thể thể hiện lòng bác ái:

Một nụ cười chân thành, một lời chào vui vẻ, một sự ân cần thăm hỏi có thể giảm bớt nỗi đau của một tâm hồn sầu muộn.

Một lời “cảm ơn” nồng nàn có thể khích lệ một người đang cảm thấy bị quên lãng, bị khinh khi.

Tình yêu chân thành sẽ luôn chỉ cho chúng ta biết phải làm gì, phải hành động như thế nào.

Tình yêu có khả năng cảm hóa lương tâm và thay đổi cách sống của một người, không chỉ cho người nhận mà còn cho chính người cho đi. Tình yêu có tác dụng lan tỏa, làm cho tha nhân trở nên tốt hơn, và làm cho thế giới này trở nên một nơi đáng sống hơn.

Câu chuyện Chúa Giêsu kể hôm nay không chỉ là một bài học đạo đức, mà còn là một kim chỉ nam sống động chỉ cho chúng ta biết ai là người thân cận mà chúng ta phải yêu thương: đó là bất cứ ai đang cần đến chúng ta. Người cho chúng ta sức mạnh, sự khôn ngoan để yêu thương qua chính tình yêu vô điều kiện của Ngài.

Trong tuần này, để thực hành Lời Chúa một cách cụ thể, chúng ta cùng nhau quyết tâm:

Thay vì nghĩ xấu, nói xấu tha nhân, chúng ta hãy nghĩ tốt, nói tốt cho họ.

Tìm cách giúp đỡ tha nhân một cách tận tình và bác ái hơn, không phân biệt đối xử hay chờ đợi sự đền đáp.

Với vai trò làm cha mẹ, hãy dạy cho con cái sống trong sạch, biết yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì chính Ngài là suối nguồn yêu thương. Dạy cho các em nhỏ biết kính trọng người lớn và chân thành yêu thương những người kém may mắn.

Cuối cùng, mỗi người chúng ta hãy cầu nguyện để xin Chúa ban cho mình tấm lòng quảng đại, biết yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta.

Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta ân sủng để biến lời Ngài thành hành động cụ thể, để chúng ta thực sự trở thành người thân cận của mọi người, và để tình yêu thương của Chúa được lan tỏa qua mỗi việc làm của chúng ta. Amen.

Lm. Anmai, CSsR

SỐNG TINH THẦN SAMARIA NHÂN LÀNH THỜI NAY

Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm về dụ ngôn Người Samaria nhân lành – một câu chuyện đã quá quen thuộc, nhưng vẫn luôn chất chứa những ý nghĩa sâu sắc và thách thức chúng ta mỗi ngày. Quan niệm thiển cận của người Do Thái thời bấy giờ cho rằng một người Samaria ngoại đạo thì không thể sống bác ái, lương thiện. Thế nhưng, chính người Samaria ấy, một “anh chàng không có đạo” trong mắt họ, lại trở thành mẫu mực của tình yêu thương, vượt trội hơn cả những người được coi là chính thống và đạo đức nhất trong xã hội và tôn giáo lúc bấy giờ như thầy Lêvi và vị tư tế.

Điều đó đặt ra cho chúng ta một câu hỏi lớn: “Còn chúng ta thì sao?” Chúng ta, những người tự xưng là Kitô hữu, những người mang danh Chúa, đã thực sự sống tinh thần Samaria nhân lành trong thời buổi hôm nay chưa?

Dụ ngôn Người Samaria nhân lành không chỉ là một câu chuyện đạo đức đơn thuần, mà là một thách thức trực tiếp đến những quan niệm hẹp hòi về tình yêu thương.

Sự hẹp hòi của định kiến: Người Do Thái coi người Samaria là kẻ ngoại đạo, là những người không xứng đáng được hưởng ơn cứu độ, thậm chí còn là kẻ thù. Điều này khiến họ không thể chấp nhận rằng một người Samaria lại có thể thể hiện lòng bác ái lớn lao hơn cả những người giữ luật tỉ mỉ như thầy Lêvi hay vị tư tế. Thầy Lêvi và vị tư tế, vì giữ luật thanh sạch hoặc vì sợ phiền phức, đã bỏ mặc người gặp nạn. Họ đại diện cho một thứ đạo đức hình thức, thiếu đi trái tim yêu thương.

Tình yêu không giới hạn: Ngược lại, người Samaria, người mà theo định kiến thì không thể có lòng đạo đức, lại là người duy nhất dừng lại. Anh không chỉ dừng lại, mà còn động lòng trắc ẩn, băng bó vết thương, đưa người bị nạn về quán trọ, và còn lo liệu mọi chi phí. Anh đã vượt qua mọi rào cản về chủng tộc, tôn giáo, và địa vị xã hội để thực thi lòng bác ái đích thực. Anh là minh chứng sống động rằng tình yêu thương không bị giới hạn bởi bất kỳ danh hiệu hay quan niệm nào. Lòng trắc ẩn và hành động cụ thể mới là thước đo của tình yêu.

Câu trả lời cho câu hỏi “Còn chúng ta thì sao?” là: Chúng ta cũng phải trở nên là những người Samaria nhân lành của thời buổi hôm nay. Điều này có nghĩa là một lối sống không chỉ vì mình, mà còn vì người khác; không chỉ lo toan cho cá nhân mà còn quan tâm đến hết mọi người chung quanh.

Sống không chỉ cho riêng mình: Trong một xã hội đề cao chủ nghĩa cá nhân, chúng ta thường dễ dàng tập trung vào lợi ích riêng, vào việc vun vén cho bản thân và gia đình mình. Nhưng người Samaria nhân lành mời gọi chúng ta mở rộng tầm nhìn, nhận ra mình là một phần của cộng đồng, và có trách nhiệm với những người xung quanh. Đó là khi chúng ta chia sẻ thời gian, của cải, hay đơn giản là sự lắng nghe với những người kém may mắn hơn.

Quan tâm đến mọi người xung quanh: Tình yêu thương không chỉ biểu hiện qua những hành động lớn lao, mà còn qua sự quan tâm trong từng chi tiết nhỏ của cuộc sống.

Chúng ta có sẵn lòng dừng lại để giúp đỡ một người bị tai nạn trên đường không?

Chúng ta có chịu khó lắng nghe một người bạn đang gặp khó khăn không?

Chúng ta có đủ lòng kiên nhẫn để đối xử tử tế với những người mà chúng ta không ưa không?

Chúng ta có mở lòng đón nhận những người khác biệt về chủng tộc, văn hóa, hay niềm tin không?

Nghiêm túc trong mọi lãnh vực của đời sống: Tinh thần Samaria nhân lành không chỉ giới hạn trong giờ phụng vụ hay những việc đạo đức. Nó phải thấm nhập vào mọi khía cạnh của đời sống chúng ta:

Trong kinh doanh và sản xuất: Chúng ta có trung thực, công bằng, và đặt lợi ích của người khác lên trên lợi nhuận bất chính không? Chúng ta có sản xuất những sản phẩm chất lượng, không gây hại cho sức khỏe và môi trường không?

Trong các mối quan hệ: Chúng ta có chân thành, giữ lời hứa, và tha thứ cho nhau không?

Trong việc sử dụng mạng xã hội: Chúng ta có chia sẻ những thông tin tích cực, xây dựng thay vì lan truyền tin tức tiêu cực, sai lệch hay gây chia rẽ không?

Đây chính là một thứ đạo đức lương tâm, một tinh thần sống đạo trong đời thường, không chỉ vì thói quen hay hình thức, mà vì lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân.

Thực tế trong xã hội, kẻ thờ ơ với tha nhân cũng nhiều, nhưng những người Samaria hiện đại cũng không thiếu. Họ có khi mang danh hiệu Kitô hữu, có khi mang danh hiệu Phật tử, có khi mang danh hiệu cộng sản và có khi chẳng mang một danh hiệu nào cả. Nhưng điều đáng chú ý là họ giống như Đức Kitô đã sống và họ tiếp cận được với Thiên Chúa cũng như với tha nhân qua những hành động bác ái, yêu thương vượt lên mọi rào cản. Điều này cho thấy rằng, Thiên Chúa không chỉ hiện diện trong nhà thờ hay qua những nghi lễ, mà Ngài còn hiện diện trong chính tình yêu thương mà con người dành cho nhau.

Vậy thì, để trở nên những người Samaria thời buổi hôm nay, chúng ta đã thực sự có được một trái tim mở rộng, một thái độ quan tâm đến mọi người, mọi việc kế cận với chúng ta hay chưa?

Vượt qua sự vô cảm: Chúng ta thường dễ dàng bị cuốn vào vòng xoáy của cuộc sống bận rộn, của những lo toan cá nhân mà trở nên vô cảm với nỗi đau của người khác. Chúng ta thấy người nghèo, người vô gia cư, người bệnh tật, người cô đơn… nhưng đôi khi lại vội vã lướt qua, tìm lý do để không phải can thiệp.

Thách thức của lòng trắc ẩn: Đức Giêsu đã động lòng trắc ẩn. Lòng trắc ẩn không chỉ là một cảm xúc thoáng qua mà là một sự thôi thúc hành động. Nó đòi hỏi chúng ta phải vượt qua sự tiện nghi cá nhân, sự ngại ngùng hay thậm chí là nỗi sợ hãi để đến gần và giúp đỡ người khác.

Bài học từ Người Samaria nhân lành là một lời nhắc nhở mạnh mẽ rằng con đường dẫn đến sự sống đời đời không phải là sự giữ luật cách cứng nhắc, không phải là những nghi thức bên ngoài, mà là một trái tim biết yêu thương và hành động vì tha nhân. Thiên Chúa không ngừng mời gọi chúng ta trở thành những khí cụ của tình yêu Ngài trong thế giới này.

Nếu chúng ta biết sống trong niềm tin vào Thiên Chúa, thì sự biến đổi chính mình sẽ luôn đổi mới và lớn lên trong chúng ta bằng tình yêu, sự khiêm nhường trong đức tin. Như lời Kinh Thánh đã nói: “Mọi kẻ tin vào Người sẽ không phải thất vọng” (Rm 10,11). Niềm tin đó không chỉ là sự chấp nhận về mặt lý trí, mà là một sự phó thác trọn vẹn và một sự thúc đẩy để hành động.

Hãy xin Chúa ban cho chúng ta một trái tim quảng đại, một đôi mắt biết nhìn thấy nỗi đau của tha nhân, và đôi tay sẵn sàng hành động để trở thành những người Samaria nhân lành của thời đại chúng ta. Bởi lẽ, khi chúng ta yêu thương và phục vụ người khác, chính là lúc chúng ta yêu thương và phục vụ Đức Kitô, Đấng đang hiện diện nơi những người bé mọn nhất. Amen.

Lm. Anmai, CSsR

CON ĐƯỜNG ĐẾN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI: ĐI BẰNG TRÁI TIM

Hôm nay, chúng ta cùng lắng nghe lại một dụ ngôn quen thuộc nhưng luôn chất chứa những bài học sâu sắc và mới mẻ của Chúa Giêsu: dụ ngôn Người Samaria nhân hậu. Qua câu chuyện này, Chúa Giêsu không chỉ kể một câu chuyện đơn thuần, mà Người đang chỉ cho chúng ta con đường dẫn đến sự sống đời đời, con đường mà mỗi Kitô hữu chúng ta đều được mời gọi bước đi.

Con đường mà dụ ngôn nhắc đến là đường Giêrikhô. Con đường này, trong bối cảnh Tin Mừng, không chỉ là một tuyến đường địa lý cụ thể, mà còn tượng trưng cho con đường về Nước Trời. Đó là một con đường không hề bằng phẳng. Nó gập ghềnh khó đi, ẩn chứa vô vàn thử thách và gian nan. Nó cũng là một con đường nguy hiểm, với những “trộm cướp” rình rập – không chỉ là những kẻ cướp của giết người, mà còn là những cám dỗ, những ích kỷ, những vô cảm có thể làm chúng ta “bị thương” và “bị bỏ rơi” trên hành trình đức tin.

Để vượt qua những thử thách ấy, để an toàn đi đến đích là sự sống đời đời, vũ khí duy nhất và hữu ích nhất mà Chúa Giêsu muốn nói đến, đó chính là trái tim. Một trái tim biết yêu thương, một trái tim được biến đổi. Trái tim chiến thắng trên con đường Giêrikhô, con đường về Nước Trời, phải mang trong mình những phẩm chất đặc biệt.

Phẩm chất đầu tiên của trái tim dẫn đến sự sống đời đời, đó phải là một trái tim nhạy bén.

Người xứ Samaria nhân hậu có một trái tim vô cùng nhạy bén. Dù ông đang bận việc riêng của mình, dù vó ngựa phi nhanh trên đường, ông vẫn nhìn thấy người bị nạn nằm quằn quại bên vệ đường. Dù tiếng gió vù vù xen lẫn tiếng vó ngựa lộp cộp có thể át đi mọi âm thanh khác, ông vẫn nghe được tiếng rên rỉ rất yếu ớt của người bị nạn. Đây là điều kỳ diệu, bởi vì ông đã không dùng đôi mắt hay đôi tai thông thường.

Trong khi đó, thầy Tư Tế và Thầy Lêvi, những người được cho là hiểu biết lề luật và thánh thiện, lại chỉ đi bộ trên con đường ấy mà không thấy, không nghe. Hay nói đúng hơn, có lẽ các thầy có nghe, có thấy đấy, nhưng trái tim các thầy đã đóng kín, nên các thầy chẳng động lòng. Trái tim các thầy bị đóng kín bởi những “cánh cửa lề luật” vô hình: sợ đụng chạm vào máu, vào người bị thương, sẽ trở thành ô uế và không được tới đền thờ để dâng lễ vật. Họ đã ưu tiên luật lệ bên ngoài hơn là tình yêu thương cốt lõi bên trong.

Người xứ Samaria thì khác. Ông không nghe bằng đôi tai vật lý, không nhìn bằng đôi mắt trần tục, nhưng ông nghe và nhìn bằng trái tim. Một trái tim nhạy bén có đôi tai thính lạ lùng, có thể nghe rõ tiếng rên rỉ thì thầm tận đáy lòng, tiếng lòng của người đau khổ mà không ai nghe thấy. Một trái tim nhạy bén có đôi mắt sáng lạ lùng, có thể nhìn thấy cả những nỗi đau âm thầm, giấu kín trong tâm khảm của người khác, những nỗi đau mà vẻ bề ngoài không thể hiện. Nhạy bén là khả năng vượt qua sự thờ ơ của thế giới, vượt qua những bận rộn cá nhân, để nhận ra sự hiện diện của nỗi đau và nhu cầu của tha nhân.

Phẩm chất thứ hai của trái tim đó là một trái tim quan tâm.

Trái tim quan tâm không đứng nhìn từ xa, mà nó đưa ta đến gần gũi anh em hơn. Trái tim quan tâm không chỉ dừng lại ở việc nhận biết vấn đề, mà nó biết làm tất cả để phục vụ anh em một cách cụ thể, thiết thực.

Các thầy Tư Tế và Lêvi không có trái tim quan tâm. Khi thấy người bị nạn, họ đã tránh sang bên kia đường mà đi. Họ giữ khoảng cách, họ tự bảo vệ sự “thanh sạch” của bản thân, thay vì vượt qua nỗi sợ hãi để đến gần người anh em đang khốn khổ.

Ngược lại, người xứ Samaria có một trái tim quan tâm nên ông lập tức đến gần nạn nhân, không chút ngần ngại. Vì có trái tim quan tâm, ông không chỉ “cảm thấy tội nghiệp” mà ông có thể làm tất cả để giúp nạn nhân. Ông là một người lữ hành, nhưng vì quan tâm, ông đã mang sẵn bên mình nào là dầu, nào là băng vải – những vật dụng cần thiết cho chuyến đi, nhưng cũng sẵn sàng cho những tình huống bất ngờ.

Chẳng học nghề thuốc, vậy mà ông săn sóc vết thương một cách thành thạo. Chẳng luyện tập kỹ năng y tế, mà ông đã lấy dầu xoa bóp rất nhanh, băng bó rất khéo, như thể một lương y thực thụ. Chẳng có kỹ thuật nâng đỡ đặc biệt, mà ông biết cách đưa được bệnh nhân lên lưng ngựa một cách nhẹ nhàng và cẩn thận. Ông đã làm tất cả những điều đó theo sự hướng dẫn của trái tim. Với trái tim quan tâm, ông đã làm tất cả với sự chuẩn xác, với sự khéo léo, và quan trọng nhất, với nhiệt tình để cứu nạn nhân. Sự quan tâm biến ông thành một “chuyên gia” trong việc phục vụ người khác.

Cuối cùng, phẩm chất quan trọng để trái tim đưa ta đến sự sống đời đời, đó phải là một trái tim chung thuỷ.

Trái tim chung thuỷ không làm việc nửa vời, không bỏ cuộc giữa chừng, nhưng làm đến nơi đến chốn. Trái tim chung thuỷ không mỏi mệt buông xuôi khi gặp khó khăn, nhưng nó theo dõi, giúp đỡ cho đến tận cùng, cho đến khi người cần giúp thực sự ổn định.

Người xứ Samaria, dù bận rộn công việc riêng của mình, dù có lịch trình di chuyển cá nhân, nhưng vẫn vô cùng lo lắng cho nạn nhân. Ông không chỉ sơ cứu tại chỗ, mà còn đưa nạn nhân đến quán trọ, gửi gắm chủ quán tiếp tục thuốc thang và chăm sóc đầy đủ. Hơn thế nữa, ông còn hứa rằng khi xong việc, ông sẽ trở lại thăm hỏi để tiếp tục săn sóc cho đến khi nạn nhân khỏi hẳn. Ông làm tất cả với một trái tim chung thuỷ vẹn toàn, một tình yêu không vụ lợi, không giới hạn bởi thời gian hay công sức. Ông không chỉ làm điều tốt, mà làm điều tốt một cách trọn vẹn.

Qua dụ ngôn Người Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu dạy chúng ta một bài học cốt lõi: đường đến sự sống đời đời là con đường mà mọi người vẫn đang đi trong cuộc sống hằng ngày của mình. Nhưng chỉ những ai đi trên con đường ấy với trái tim mới thực sự mong đến đích.

Thầy Tư Tế và Thầy Lêvi đã rẽ sang hướng khác, bỏ lỡ cơ hội yêu thương, bởi vì các thầy đã không mang theo trái tim. Trái tim của các thầy bị đóng kín bởi những rào cản bên ngoài, bởi những lo toan cá nhân.

Người xứ Samaria thì khác. Ông đã đi đến nơi, không phải vì ông nhanh hơn hay giỏi giang hơn, mà vì ông đi trên con đường đó với trái tim nhân hậu, một trái tim rất nhạy bén, rất quan tâm và rất chung thuỷ. Với trái tim ấy, ông đã thực sự yêu người thân cận như chính mình ông. Với trái tim ấy, ông đã không chỉ cứu một mạng người, mà ông còn mở đường đi đến sự sống đời đời cho chính mình và cho mọi người tin theo lời dạy của Chúa.

Chúa Giêsu dạy tôi, dạy mỗi người chúng ta hãy bắt chước người xứ Samaria nhân hậu.

Hãy lên đường với trái tim.

Hãy lắng nghe với trái tim, để cảm nhận tiếng nói của người nghèo khổ, của người bị bỏ rơi.

Hãy hành động với trái tim, để những việc làm của chúng ta không chỉ là bổn phận mà còn là biểu hiện của tình yêu.

Hãy đi trên đường của trái tim, con đường mà tình yêu là kim chỉ nam.

Hãy để trái tim tham dự vào mọi lời nói, mọi cử chỉ, mọi suy nghĩ của chúng ta, để chúng trở nên chân thật, nhân ái.

Hãy mang theo trái tim theo trên khắp mọi nẻo đường, từ gia đình, công sở, đến các mối quan hệ xã hội.

Bởi vì, con đường đi với trái tim, con đường của tình yêu thương nhạy bén, quan tâm và chung thủy, chính là con đường dẫn đến sự sống đời đời. Amen.

Lm. Anmai, CSsR

ĐỊNH KIẾN VÀ SỰ KHINH MIỆT

Trước mắt người Do Thái, dân Samari là những kẻ đáng khinh miệt. Họ bị coi là người lai căng vì đã kết hôn với ngoại kiều, làm vẩn đục dòng máu tinh tuyền của tổ tiên Do Thái. Họ bị khinh miệt vì đã tôn thờ các tà thần ngoại lai, không theo đúng những lề luật nghiêm ngặt của Giêrusalem. Thế nên, người Do Thái xem người Samari như những người hạ cấp, đáng bị tẩy chay, không đáng để giao du hay giúp đỡ.

Thế nhưng, hình ảnh của người Samari trong Tin Mừng hôm nay lại đẹp tuyệt vời, rạng ngời một cách phi thường. Giá trị của người đó gia tăng tột cùng, không phải vì dòng dõi hay tôn giáo, mà vì lòng nhân ái. Nhờ đâu mà một người bị khinh miệt lại có thể trở thành một biểu tượng cao cả đến thế? Chúng ta hãy theo dõi câu chuyện do chính Chúa Giêsu thuật lại.

Tại một khúc đường vắng từ Giêrusalem đến Giêricô, vốn nổi tiếng là hiểm trở và đầy cướp bóc, có một khách bộ hành bị bọn cướp xông ra trấn lột hết tiền bạc, của cải, lại còn đánh người ấy trọng thương, nằm thoi thóp, nửa sống nửa chết giữa quảng đường hoang vắng. Một khung cảnh thật bi thảm và đầy rẫy hiểm nguy.

Khi nạn nhân đang tuyệt vọng, một tia hy vọng lóe lên khi anh ta thoáng thấy có một khách bộ hành đang từ xa đi tới. Niềm hy vọng càng dâng cao khi người đó đến gần: đó là một vị tư tế. Vị tư tế là người đại diện cho Thiên Chúa, phụng sự trong Đền Thờ, chắc chắn ngài sẽ đoái thương cứu chữa anh. Nhưng rồi, thật đau lòng, vị tư tế cố tình rảo bước thật nhanh, lánh qua một bên rồi đi thẳng, để mặc anh nằm thoi thóp. Ông ta đã bỏ đi.

Một lát sau, lại có một thầy trợ tế (thầy Lê-vi) đi qua. Niềm hy vọng của nạn nhân lại được bùng lên, nhưng rồi vụt tắt. Thầy trợ tế chỉ đảo mắt nhìn nạn nhân rên xiết, rồi cũng vội vàng rảo bước cho nhanh. Có lẽ ông ta sợ rằng bọn cướp còn ẩn náu đâu đây, sẽ trấn lột hết những gì ông ta mang trên mình và sẽ đánh đập ông nhừ tử như người khốn khổ kia. Có lẽ ông ta sợ bị ô uế theo luật lệ khi chạm vào xác chết. Hay có lẽ ông ta chỉ đơn giản là không muốn dính líu, không muốn mất thời gian và công sức. Dù lý do là gì, cả hai người này, đáng lý ra phải là hiện thân của lòng trắc ẩn và sự giúp đỡ, lại đã bỏ mặc người anh em của mình.

Cuối cùng, có tiếng lừa lộp cộp từ xa vẳng lại. Người thứ ba xuất hiện: một người dân Samari. Ôi thôi! Chẳng hy vọng gì nơi hạng người này! Hạng người xưa nay vẫn mang tiếng là lai căng và rối đạo, là kẻ thù của người Do Thái! Định kiến xã hội, sự khinh miệt chủng tộc và tôn giáo đã khiến nạn nhân và bất cứ ai chứng kiến đều không trông mong gì ở người này.

Thế nhưng, điều thật bất ngờ đã xảy ra. Người Samari cho lừa dừng lại, bước xuống, cúi mình trên nạn nhân, cảm thương con người xấu số. Có thể giờ này vợ con ông ta đang nóng lòng mong đợi ở nhà. Có thể bọn cướp còn đang lai vãng đâu đây, có thể chúng lại xông ra để cướp, để giết hại ông như chúng đã gây ra cho người xấu số kia. Ông sẽ phải mất công, bỏ việc vì nạn nhân này. Bao nhiêu lý do để ông có thể bỏ đi, giống như vị tư tế và thầy trợ tế. Nhưng không. Ông đã chọn hành động khác. Ông thốt lên trong lòng: “Thương người như thể thương thân, phải tìm cách cứu sống anh ta trước đã.”

Thế là người Samari vội mở hành trang lấy cồn, lấy rượu rửa sạch vết thương, băng bó những vết thương còn rỉ máu, lấy dầu xoa bóp những nơi bầm tím. Những hành động này không chỉ thể hiện sự giúp đỡ, mà là sự chăm sóc tận tình, chu đáo như một thầy thuốc chuyên nghiệp. Rồi ông vực nạn nhân lên lừa của mình, một cử chỉ đòi hỏi sức lực và sự hy sinh, và quay ngược đường trở về quán trọ.

Đến nơi, ông ta không chỉ bỏ mặc nạn nhân mà còn lo liệu cơm cháo, thuốc men, săn sóc nạn nhân như săn sóc cho chính người thân yêu của mình suốt đêm. Sáng hôm sau, vì công việc khẩn trương, ông phải vội lên đường. Nhưng trước khi ra đi, ông ta dốc hết túi tiền, trao cho chủ quán với lời căn dặn đầy trách nhiệm: “Xin ông vui lòng chăm sóc người này giùm tôi cho chu đáo, nếu còn tốn phí thêm bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ hoàn lại cho ông.” Thật là một sự hy sinh hết sức lớn lao! Ông không chỉ bỏ công sức, thời gian, mà còn hy sinh cả tiền bạc, không hề tính toán thiệt hơn. Một tấm gương hào hiệp và cao đẹp hiếm có. Nét đẹp đó vẫn được Giáo Hội truyền tụng suốt hai mươi thế kỷ qua và cho đến muôn đời.

Thế là, đang khi danh giá người Samari lên cao tột đỉnh nhờ giàu lòng nhân ái, thì danh giá của vị tư tế và thầy Lê-vi lại bị tụt dốc thảm hại vì đã thiếu lòng thương xót, đã không hy sinh giúp đỡ nạn nhân trong cơn hoạn nạn, ngặt nghèo. Câu chuyện này lật ngược mọi giá trị xã hội: địa vị tôn giáo và vẻ ngoài đạo đức không thể sánh bằng lòng trắc ẩn và hành động cụ thể.

Sự hy sinh phục vụ của người Samari không chỉ nâng cao giá trị của ông ta trước mắt con người, mà còn là một điều kiện tiên quyết giúp ông được sống đời đời. Khi người thông luật hỏi Chúa Giêsu phải làm gì để được sống đời đời, Chúa Giêsu đã giúp ông ta khám phá ra câu đáp trong chính lề luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.”

Chúa Giêsu không lý thuyết suông. Ngài cụ thể hóa quy luật mến Chúa yêu người bằng chính hành động nhân ái của người Samari. Và Ngài kết thúc dụ ngôn với lời mời gọi mạnh mẽ: “Ông hãy đi và làm như vậy.” Như thế, những ai muốn được sống đời đời thì hãy quên mình phục vụ tha nhân, hãy trở nên người thân cận của những ai đang cần giúp đỡ, bất kể họ là ai, đến từ đâu, và có địa vị gì trong xã hội.

Anh chị em thân mến, câu chuyện người Samari nhân hậu là một lời thách thức trực tiếp đến mỗi người chúng ta. Trong cuộc sống hôm nay, có biết bao nhiêu “khúc đường vắng Giêrusalem-Giêricô” mà ở đó có những nạn nhân đang nằm thoi thóp. Đó có thể là những người nghèo đói, những người bị bỏ rơi, những người bị bệnh tật hành hạ, những người bị cô lập xã hội vì bất cứ lý do gì.

Chúng ta có đang như vị tư tế và thầy Lê-vi, vội vã rảo bước vì sợ hãi, vì bận rộn, vì những định kiến cá nhân, hay vì đơn giản là không muốn rắc rối? Hay chúng ta sẽ dám trở thành người Samari nhân hậu, vượt qua mọi định kiến, mọi nỗi sợ hãi để cúi xuống, băng bó vết thương, và nâng đỡ những người anh em đang khốn khổ?

Quên mình phục vụ tha nhân, một việc làm với hai hiệu quả lớn: làm gia tăng đáng kể giá trị của chính chúng ta trước mặt Thiên Chúa và anh em, và là điều kiện để được hưởng sự sống đời đời. Hãy noi gương người Samari nhân hậu, để cuộc sống của chúng ta không chỉ có ý nghĩa trên trần thế, mà còn là con đường vững chắc dẫn về quê hương vĩnh cửu.

Lm. Anmai, CSsR

CON ĐƯỜNG ĐẾN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI: ĐI BẰNG TRÁI TIM

Hôm nay, chúng ta cùng lắng nghe lại một dụ ngôn quen thuộc nhưng luôn chất chứa những bài học sâu sắc và mới mẻ của Chúa Giêsu: dụ ngôn Người Samaria nhân hậu. Qua câu chuyện này, Chúa Giêsu không chỉ kể một câu chuyện đơn thuần, mà Người đang chỉ cho chúng ta con đường dẫn đến sự sống đời đời, con đường mà mỗi Kitô hữu chúng ta đều được mời gọi bước đi.

Con đường mà dụ ngôn nhắc đến là đường Giêrikhô. Con đường này, trong bối cảnh Tin Mừng, không chỉ là một tuyến đường địa lý cụ thể, mà còn tượng trưng cho con đường về Nước Trời. Đó là một con đường không hề bằng phẳng. Nó gập ghềnh khó đi, ẩn chứa vô vàn thử thách và gian nan. Nó cũng là một con đường nguy hiểm, với những “trộm cướp” rình rập – không chỉ là những kẻ cướp của giết người, mà còn là những cám dỗ, những ích kỷ, những vô cảm có thể làm chúng ta “bị thương” và “bị bỏ rơi” trên hành trình đức tin.

Để vượt qua những thử thách ấy, để an toàn đi đến đích là sự sống đời đời, vũ khí duy nhất và hữu ích nhất mà Chúa Giêsu muốn nói đến, đó chính là trái tim. Một trái tim biết yêu thương, một trái tim được biến đổi. Trái tim chiến thắng trên con đường Giêrikhô, con đường về Nước Trời, phải mang trong mình những phẩm chất đặc biệt.

Phẩm chất đầu tiên của trái tim dẫn đến sự sống đời đời, đó phải là một trái tim nhạy bén.

Người xứ Samaria nhân hậu có một trái tim vô cùng nhạy bén. Dù ông đang bận việc riêng của mình, dù vó ngựa phi nhanh trên đường, ông vẫn nhìn thấy người bị nạn nằm quằn quại bên vệ đường. Dù tiếng gió vù vù xen lẫn tiếng vó ngựa lộp cộp có thể át đi mọi âm thanh khác, ông vẫn nghe được tiếng rên rỉ rất yếu ớt của người bị nạn. Đây là điều kỳ diệu, bởi vì ông đã không dùng đôi mắt hay đôi tai thông thường.

Trong khi đó, thầy Tư Tế và Thầy Lêvi, những người được cho là hiểu biết lề luật và thánh thiện, lại chỉ đi bộ trên con đường ấy mà không thấy, không nghe. Hay nói đúng hơn, có lẽ các thầy có nghe, có thấy đấy, nhưng trái tim các thầy đã đóng kín, nên các thầy chẳng động lòng. Trái tim các thầy bị đóng kín bởi những “cánh cửa lề luật” vô hình: sợ đụng chạm vào máu, vào người bị thương, sẽ trở thành ô uế và không được tới đền thờ để dâng lễ vật. Họ đã ưu tiên luật lệ bên ngoài hơn là tình yêu thương cốt lõi bên trong.

Người xứ Samaria thì khác. Ông không nghe bằng đôi tai vật lý, không nhìn bằng đôi mắt trần tục, nhưng ông nghe và nhìn bằng trái tim. Một trái tim nhạy bén có đôi tai thính lạ lùng, có thể nghe rõ tiếng rên rỉ thì thầm tận đáy lòng, tiếng lòng của người đau khổ mà không ai nghe thấy. Một trái tim nhạy bén có đôi mắt sáng lạ lùng, có thể nhìn thấy cả những nỗi đau âm thầm, giấu kín trong tâm khảm của người khác, những nỗi đau mà vẻ bề ngoài không thể hiện. Nhạy bén là khả năng vượt qua sự thờ ơ của thế giới, vượt qua những bận rộn cá nhân, để nhận ra sự hiện diện của nỗi đau và nhu cầu của tha nhân.

Phẩm chất thứ hai của trái tim đó là một trái tim quan tâm.

Trái tim quan tâm không đứng nhìn từ xa, mà nó đưa ta đến gần gũi anh em hơn. Trái tim quan tâm không chỉ dừng lại ở việc nhận biết vấn đề, mà nó biết làm tất cả để phục vụ anh em một cách cụ thể, thiết thực.

Các thầy Tư Tế và Lêvi không có trái tim quan tâm. Khi thấy người bị nạn, họ đã tránh sang bên kia đường mà đi. Họ giữ khoảng cách, họ tự bảo vệ sự “thanh sạch” của bản thân, thay vì vượt qua nỗi sợ hãi để đến gần người anh em đang khốn khổ.

Ngược lại, người xứ Samaria có một trái tim quan tâm nên ông lập tức đến gần nạn nhân, không chút ngần ngại. Vì có trái tim quan tâm, ông không chỉ “cảm thấy tội nghiệp” mà ông có thể làm tất cả để giúp nạn nhân. Ông là một người lữ hành, nhưng vì quan tâm, ông đã mang sẵn bên mình nào là dầu, nào là băng vải – những vật dụng cần thiết cho chuyến đi, nhưng cũng sẵn sàng cho những tình huống bất ngờ.

Chẳng học nghề thuốc, vậy mà ông săn sóc vết thương một cách thành thạo. Chẳng luyện tập kỹ năng y tế, mà ông đã lấy dầu xoa bóp rất nhanh, băng bó rất khéo, như thể một lương y thực thụ. Chẳng có kỹ thuật nâng đỡ đặc biệt, mà ông biết cách đưa được bệnh nhân lên lưng ngựa một cách nhẹ nhàng và cẩn thận. Ông đã làm tất cả những điều đó theo sự hướng dẫn của trái tim. Với trái tim quan tâm, ông đã làm tất cả với sự chuẩn xác, với sự khéo léo, và quan trọng nhất, với nhiệt tình để cứu nạn nhân. Sự quan tâm biến ông thành một “chuyên gia” trong việc phục vụ người khác.

Cuối cùng, phẩm chất quan trọng để trái tim đưa ta đến sự sống đời đời, đó phải là một trái tim chung thuỷ.

Trái tim chung thuỷ không làm việc nửa vời, không bỏ cuộc giữa chừng, nhưng làm đến nơi đến chốn. Trái tim chung thuỷ không mỏi mệt buông xuôi khi gặp khó khăn, nhưng nó theo dõi, giúp đỡ cho đến tận cùng, cho đến khi người cần giúp thực sự ổn định.

Người xứ Samaria, dù bận rộn công việc riêng của mình, dù có lịch trình di chuyển cá nhân, nhưng vẫn vô cùng lo lắng cho nạn nhân. Ông không chỉ sơ cứu tại chỗ, mà còn đưa nạn nhân đến quán trọ, gửi gắm chủ quán tiếp tục thuốc thang và chăm sóc đầy đủ. Hơn thế nữa, ông còn hứa rằng khi xong việc, ông sẽ trở lại thăm hỏi để tiếp tục săn sóc cho đến khi nạn nhân khỏi hẳn. Ông làm tất cả với một trái tim chung thuỷ vẹn toàn, một tình yêu không vụ lợi, không giới hạn bởi thời gian hay công sức. Ông không chỉ làm điều tốt, mà làm điều tốt một cách trọn vẹn.

Qua dụ ngôn Người Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu dạy chúng ta một bài học cốt lõi: đường đến sự sống đời đời là con đường mà mọi người vẫn đang đi trong cuộc sống hằng ngày của mình. Nhưng chỉ những ai đi trên con đường ấy với trái tim mới thực sự mong đến đích.

Thầy Tư Tế và Thầy Lêvi đã rẽ sang hướng khác, bỏ lỡ cơ hội yêu thương, bởi vì các thầy đã không mang theo trái tim. Trái tim của các thầy bị đóng kín bởi những rào cản bên ngoài, bởi những lo toan cá nhân.

Người xứ Samaria thì khác. Ông đã đi đến nơi, không phải vì ông nhanh hơn hay giỏi giang hơn, mà vì ông đi trên con đường đó với trái tim nhân hậu, một trái tim rất nhạy bén, rất quan tâm và rất chung thuỷ. Với trái tim ấy, ông đã thực sự yêu người thân cận như chính mình ông. Với trái tim ấy, ông đã không chỉ cứu một mạng người, mà ông còn mở đường đi đến sự sống đời đời cho chính mình và cho mọi người tin theo lời dạy của Chúa.

Chúa Giêsu dạy tôi, dạy mỗi người chúng ta hãy bắt chước người xứ Samaria nhân hậu.

Hãy lên đường với trái tim.

Hãy lắng nghe với trái tim, để cảm nhận tiếng nói của người nghèo khổ, của người bị bỏ rơi.

Hãy hành động với trái tim, để những việc làm của chúng ta không chỉ là bổn phận mà còn là biểu hiện của tình yêu.

Hãy đi trên đường của trái tim, con đường mà tình yêu là kim chỉ nam.

Hãy để trái tim tham dự vào mọi lời nói, mọi cử chỉ, mọi suy nghĩ của chúng ta, để chúng trở nên chân thật, nhân ái.

Hãy mang theo trái tim theo trên khắp mọi nẻo đường, từ gia đình, công sở, đến các mối quan hệ xã hội.

Bởi vì, con đường đi với trái tim, con đường của tình yêu thương nhạy bén, quan tâm và chung thủy, chính là con đường dẫn đến sự sống đời đời. Amen.

Lm. Anmai, CSsR

DỪNG LẠI, CHIA SẺ, VÀ PHỤC VỤ: SỨ VỤ CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU

Lời Chúa hôm nay một lần nữa lay động tâm hồn chúng ta, mời gọi chúng ta nhìn lại cách mình đang sống và cách mình đang tương tác với thế giới xung quanh. Với dụ ngôn Người Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu không chỉ kể một câu chuyện mà còn vẽ nên một bức tranh chân thực về cuộc đời chúng ta, về những lựa chọn hàng ngày mà chúng ta đối mặt. Ngài mời gọi chúng ta dừng lại để giúp đỡ những ai đang cần đến chúng ta, và chia sẻ với những khó khăn của tha nhân.

Hình ảnh vị Thầy Tư tế và thầy Lêvi trong dụ ngôn, những người được kỳ vọng là có lòng đạo đức và tình người, nhưng lại bỏ lại đằng sau tiếng kêu cứu của đồng loại, diễn tả một thực trạng đáng buồn trong thế giới hiện đại. Đó là một thế giới mà con người luôn hối hả, bận rộn với dòng chảy cuộc đời. Chúng ta bị cuốn theo guồng quay của công việc, của các mối quan hệ xã hội, của những kế hoạch cá nhân, đến nỗi đôi khi, chúng ta quên mất rằng cuộc sống đích thực là cuộc sống còn có khả năng chia sẻ với tha nhân.

Chúng ta thường tự nhủ: “Tôi bận quá,” “Tôi không có thời gian,” “Đó không phải việc của tôi.” Những lý do ấy, dù đôi khi có vẻ chính đáng, nhưng lại vô tình biến chúng ta thành những người Samaria và Lêvi của thời đại mới, những người đã để cho dòng đời cuốn trôi đến mức đánh mất khả năng nhìn thấy, lắng nghe và hành động trước nỗi đau của người khác. Một cuộc đời có ý nghĩa là cuộc đời biết dùng thời giờ để sống với tha nhân trong yêu thương và phục vụ. Và ngược lại, một cuộc đời đã mất ý nghĩa khi không còn khả năng để giúp đỡ anh em.

Hãy nhìn vào hình ảnh của “Ông Hoàng hạnh phúc” mà lời gợi ý đã nêu. Ông đã không còn cảm thấy hạnh phúc khi nhận ra mình không còn khả năng để giúp đỡ đồng loại, để xoa dịu nỗi đau của họ. Sự bất hạnh của ông không đến từ việc mất đi của cải, mà đến từ sự mất mát khả năng cho đi. Điều này cho thấy rõ ràng: hạnh phúc đích thực không nằm ở việc chúng ta có bao nhiêu, mà ở việc chúng ta có thể chia sẻ bao nhiêu.

Trái ngược hoàn toàn với hình ảnh Thầy Tư tế và Lêvi, người Samaria nhân hậu là một biểu tượng của tình yêu thương và sự phục vụ vô vị lợi. Ông là người ngoại bang, là người bị xã hội Do Thái khinh miệt, nhưng lại chính là người đã thể hiện lòng trắc ẩn và hành động cụ thể khi chứng kiến người bị cướp nằm hấp hối. Ông đã dừng lại giữa hành trình của mình, bỏ qua những tính toán cá nhân, những định kiến xã hội. Ông đã không chỉ dừng lại mà còn hành động: băng bó vết thương, đưa người bị nạn đến quán trọ, và thậm chí còn chi trả cho việc chăm sóc.

Người Samaria đã tìm thấy niềm vui của cuộc đời phục vụ. Cuộc đời ông hạnh phúc biết bao khi ông băng bó nỗi đau của đồng loại. Khi ánh mắt của kẻ chịu ơn đang nhìn ông một cách trìu mến thân thương. Đây không chỉ là sự giải thoát khỏi nỗi đau thể xác, mà còn là sự tái thiết lại nhân phẩm, là sự kết nối của con người với con người. Niềm vui của ông càng được nhân lên khi người mà ông giúp đỡ đã coi ông như anh em. Từ một người xa lạ, một nạn nhân vô danh, nay trở thành kẻ thân thích, một người anh em. Ông đã biết dùng của cải đời này để “mua bạn hữu đời này và cả đời sau.” Đây chính là một chân lý sâu sắc: những gì chúng ta cho đi trong tình yêu thương sẽ mang lại giá trị vĩnh cửu, kết nối chúng ta với Thiên Chúa và với nhau.

Câu chuyện về người Samaria nhân hậu không chỉ là một dụ ngôn của ngày xưa, mà còn là lời mời gọi khẩn thiết cho mỗi người chúng ta, đặc biệt trong bối cảnh Năm Thánh với chủ đề Giáo hội mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ. Chủ đề này là lời nhắc nhở chúng ta về bản chất của Giáo hội của Chúa, do Chúa sáng lập và hiện diện giữa trần gian này.

Mỗi Kitô hữu cần phải hiệp nhất với nhau trong Chúa. Chúng ta được mời gọi nhìn nhận nhau là anh em, không phân biệt chủng tộc, địa vị, hay quá khứ. Chúng ta không chỉ là một tập hợp các cá nhân riêng lẻ, mà là một thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, nơi mỗi thành viên đều có vai trò và trách nhiệm của mình.

Và để thể hiện sự hiệp thông đó, chúng ta cần phải biết sống đời Kitô hữu bằng sự dấn thân để phục vụ tha nhân trong yêu thương chân thành. Sứ vụ của Giáo hội không chỉ gói gọn trong các nghi lễ phụng vụ hay những lời cầu nguyện, mà còn phải được thể hiện rõ nét qua hành động cụ thể, qua việc chúng ta “dừng lại” và “chia sẻ” với những người đang cần. Dòng đời có thể cuốn chúng ta đi rất nhanh, nhưng là Kitô hữu, chúng ta có một sứ mệnh cao cả hơn: đó là trở thành những người Samaria nhân hậu giữa lòng thế giới.

Hãy để lời Chúa là kim chỉ nam cho hành động của chúng ta. Nguyện xin Chúa là Đấng đã hết lòng yêu thương và phục vụ con người cho đến nỗi bằng lòng chịu chết vì chúng ta, giúp cho chúng ta cũng biết sống yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta. Ước gì mỗi bàn tay của chúng ta không chỉ là bàn tay của lao động và kiếm tìm, mà còn là bàn tay của sự sẻ chia, của lòng trắc ẩn, và của tình yêu thương vô vị lợi.

Lm. Anmai, CSsR

ĐỊNH KIẾN VÀ SỰ KHINH MIỆT

Trước mắt người Do Thái, dân Samari là những kẻ đáng khinh miệt. Họ bị coi là người lai căng vì đã kết hôn với ngoại kiều, làm vẩn đục dòng máu tinh tuyền của tổ tiên Do Thái. Họ bị khinh miệt vì đã tôn thờ các tà thần ngoại lai, không theo đúng những lề luật nghiêm ngặt của Giêrusalem. Thế nên, người Do Thái xem người Samari như những người hạ cấp, đáng bị tẩy chay, không đáng để giao du hay giúp đỡ.

Thế nhưng, hình ảnh của người Samari trong Tin Mừng hôm nay lại đẹp tuyệt vời, rạng ngời một cách phi thường. Giá trị của người đó gia tăng tột cùng, không phải vì dòng dõi hay tôn giáo, mà vì lòng nhân ái. Nhờ đâu mà một người bị khinh miệt lại có thể trở thành một biểu tượng cao cả đến thế? Chúng ta hãy theo dõi câu chuyện do chính Chúa Giêsu thuật lại.

Tại một khúc đường vắng từ Giêrusalem đến Giêricô, vốn nổi tiếng là hiểm trở và đầy cướp bóc, có một khách bộ hành bị bọn cướp xông ra trấn lột hết tiền bạc, của cải, lại còn đánh người ấy trọng thương, nằm thoi thóp, nửa sống nửa chết giữa quảng đường hoang vắng. Một khung cảnh thật bi thảm và đầy rẫy hiểm nguy.

Khi nạn nhân đang tuyệt vọng, một tia hy vọng lóe lên khi anh ta thoáng thấy có một khách bộ hành đang từ xa đi tới. Niềm hy vọng càng dâng cao khi người đó đến gần: đó là một vị tư tế. Vị tư tế là người đại diện cho Thiên Chúa, phụng sự trong Đền Thờ, chắc chắn ngài sẽ đoái thương cứu chữa anh. Nhưng rồi, thật đau lòng, vị tư tế cố tình rảo bước thật nhanh, lánh qua một bên rồi đi thẳng, để mặc anh nằm thoi thóp. Ông ta đã bỏ đi.

Một lát sau, lại có một thầy trợ tế (thầy Lê-vi) đi qua. Niềm hy vọng của nạn nhân lại được bùng lên, nhưng rồi vụt tắt. Thầy trợ tế chỉ đảo mắt nhìn nạn nhân rên xiết, rồi cũng vội vàng rảo bước cho nhanh. Có lẽ ông ta sợ rằng bọn cướp còn ẩn náu đâu đây, sẽ trấn lột hết những gì ông ta mang trên mình và sẽ đánh đập ông nhừ tử như người khốn khổ kia. Có lẽ ông ta sợ bị ô uế theo luật lệ khi chạm vào xác chết. Hay có lẽ ông ta chỉ đơn giản là không muốn dính líu, không muốn mất thời gian và công sức. Dù lý do là gì, cả hai người này, đáng lý ra phải là hiện thân của lòng trắc ẩn và sự giúp đỡ, lại đã bỏ mặc người anh em của mình.

Cuối cùng, có tiếng lừa lộp cộp từ xa vẳng lại. Người thứ ba xuất hiện: một người dân Samari. Ôi thôi! Chẳng hy vọng gì nơi hạng người này! Hạng người xưa nay vẫn mang tiếng là lai căng và rối đạo, là kẻ thù của người Do Thái! Định kiến xã hội, sự khinh miệt chủng tộc và tôn giáo đã khiến nạn nhân và bất cứ ai chứng kiến đều không trông mong gì ở người này.

Thế nhưng, điều thật bất ngờ đã xảy ra. Người Samari cho lừa dừng lại, bước xuống, cúi mình trên nạn nhân, cảm thương con người xấu số. Có thể giờ này vợ con ông ta đang nóng lòng mong đợi ở nhà. Có thể bọn cướp còn đang lai vãng đâu đây, có thể chúng lại xông ra để cướp, để giết hại ông như chúng đã gây ra cho người xấu số kia. Ông sẽ phải mất công, bỏ việc vì nạn nhân này. Bao nhiêu lý do để ông có thể bỏ đi, giống như vị tư tế và thầy trợ tế. Nhưng không. Ông đã chọn hành động khác. Ông thốt lên trong lòng: “Thương người như thể thương thân, phải tìm cách cứu sống anh ta trước đã.”

Thế là người Samari vội mở hành trang lấy cồn, lấy rượu rửa sạch vết thương, băng bó những vết thương còn rỉ máu, lấy dầu xoa bóp những nơi bầm tím. Những hành động này không chỉ thể hiện sự giúp đỡ, mà là sự chăm sóc tận tình, chu đáo như một thầy thuốc chuyên nghiệp. Rồi ông vực nạn nhân lên lừa của mình, một cử chỉ đòi hỏi sức lực và sự hy sinh, và quay ngược đường trở về quán trọ.

Đến nơi, ông ta không chỉ bỏ mặc nạn nhân mà còn lo liệu cơm cháo, thuốc men, săn sóc nạn nhân như săn sóc cho chính người thân yêu của mình suốt đêm. Sáng hôm sau, vì công việc khẩn trương, ông phải vội lên đường. Nhưng trước khi ra đi, ông ta dốc hết túi tiền, trao cho chủ quán với lời căn dặn đầy trách nhiệm: “Xin ông vui lòng chăm sóc người này giùm tôi cho chu đáo, nếu còn tốn phí thêm bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ hoàn lại cho ông.” Thật là một sự hy sinh hết sức lớn lao! Ông không chỉ bỏ công sức, thời gian, mà còn hy sinh cả tiền bạc, không hề tính toán thiệt hơn. Một tấm gương hào hiệp và cao đẹp hiếm có. Nét đẹp đó vẫn được Giáo Hội truyền tụng suốt hai mươi thế kỷ qua và cho đến muôn đời.

Thế là, đang khi danh giá người Samari lên cao tột đỉnh nhờ giàu lòng nhân ái, thì danh giá của vị tư tế và thầy Lê-vi lại bị tụt dốc thảm hại vì đã thiếu lòng thương xót, đã không hy sinh giúp đỡ nạn nhân trong cơn hoạn nạn, ngặt nghèo. Câu chuyện này lật ngược mọi giá trị xã hội: địa vị tôn giáo và vẻ ngoài đạo đức không thể sánh bằng lòng trắc ẩn và hành động cụ thể.

Sự hy sinh phục vụ của người Samari không chỉ nâng cao giá trị của ông ta trước mắt con người, mà còn là một điều kiện tiên quyết giúp ông được sống đời đời. Khi người thông luật hỏi Chúa Giêsu phải làm gì để được sống đời đời, Chúa Giêsu đã giúp ông ta khám phá ra câu đáp trong chính lề luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.”

Chúa Giêsu không lý thuyết suông. Ngài cụ thể hóa quy luật mến Chúa yêu người bằng chính hành động nhân ái của người Samari. Và Ngài kết thúc dụ ngôn với lời mời gọi mạnh mẽ: “Ông hãy đi và làm như vậy.” Như thế, những ai muốn được sống đời đời thì hãy quên mình phục vụ tha nhân, hãy trở nên người thân cận của những ai đang cần giúp đỡ, bất kể họ là ai, đến từ đâu, và có địa vị gì trong xã hội.

Anh chị em thân mến, câu chuyện người Samari nhân hậu là một lời thách thức trực tiếp đến mỗi người chúng ta. Trong cuộc sống hôm nay, có biết bao nhiêu “khúc đường vắng Giêrusalem-Giêricô” mà ở đó có những nạn nhân đang nằm thoi thóp. Đó có thể là những người nghèo đói, những người bị bỏ rơi, những người bị bệnh tật hành hạ, những người bị cô lập xã hội vì bất cứ lý do gì.

Chúng ta có đang như vị tư tế và thầy Lê-vi, vội vã rảo bước vì sợ hãi, vì bận rộn, vì những định kiến cá nhân, hay vì đơn giản là không muốn rắc rối? Hay chúng ta sẽ dám trở thành người Samari nhân hậu, vượt qua mọi định kiến, mọi nỗi sợ hãi để cúi xuống, băng bó vết thương, và nâng đỡ những người anh em đang khốn khổ?

Quên mình phục vụ tha nhân, một việc làm với hai hiệu quả lớn: làm gia tăng đáng kể giá trị của chính chúng ta trước mặt Thiên Chúa và anh em, và là điều kiện để được hưởng sự sống đời đời. Hãy noi gương người Samari nhân hậu, để cuộc sống của chúng ta không chỉ có ý nghĩa trên trần thế, mà còn là con đường vững chắc dẫn về quê hương vĩnh cửu.

Lm. Anmai, CSsR

Ai Là Người Thân Cận Của Tôi? – Lời Mời Gọi Yêu Thương Vị Tha Trong Thế Giới Chia Rẽ

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Bài Tin Mừng hôm nay (Lc 10, 29) mở ra với một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại chứa đựng một chân lý sâu xa, chạm đến tận cùng bản chất mối tương quan giữa con người với con người: “Ai là người thân cận của tôi?” Đây là câu hỏi của một nhà thông luật, một người có học vấn, tìm cách biện minh cho mình sau khi Chúa Giêsu dạy phải yêu mến Thiên Chúa và yêu mến tha nhân. Nhưng liệu câu hỏi đó có thực sự vô tư? Hay nó chất chứa một sự tính toán, một ranh giới ngầm, phân chia thế giới thành những phe phái rõ ràng: “người thân cận” (người có quyền lợi liên quan đến tôi, người tôi nên giúp đỡ) và những người còn lại (người xa lạ hoặc thậm chí là kẻ thù, những người mà tôi không có bổn phận phải quan tâm)?

Trong tâm trí con người, đặc biệt trong một xã hội đầy cạnh tranh như ngày nay, câu hỏi này thường nhắm đến quyền lợi của cá nhân người hỏi. Chúng ta có thể hiểu ngầm rằng: “Những người còn lại là người xa lạ hoặc là thù địch của tôi.” Nếu là người thân, không hại đến quyền lợi tôi thì tôi giúp. Còn kẻ thù hại đến quyền lợi tôi thì tôi bất thông giao. Anh em thì không hại tôi, nhưng có lợi cho tôi. Kẻ xa lạ thì phải dè chừng, kẻ thù địch thì phải tiêu diệt. Đây là một lối tư duy quen thuộc, nơi lợi ích và sự an toàn của bản thân là trung tâm, định hình mọi mối quan hệ và hành vi ứng xử. Chúng ta dễ dàng giăng một ranh giới vô hình: ai ở trong vòng tròn của tôi, tôi sẽ bảo vệ; ai ở ngoài vòng tròn đó, tôi sẽ cảnh giác, thậm chí đối xử lạnh nhạt.

Thế nhưng, câu trả lời của Chúa Giêsu trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu dường như không tập trung vào việc định nghĩa “người thân cận” là ai theo tiêu chí của chúng ta. Ngược lại, Chúa Giêsu đã lật ngược vấn đề, nhấn mạnh một khía cạnh hoàn toàn khác, một khía cạnh vị tha và vượt lên trên mọi tính toán phàm tục.

  1. Từ Bỏ Tính Ích Kỷ: Lật Ngược Vấn Đề Từ “Ai Là Người Thân Cận Của Tôi?” Sang “Tôi Có Bổn Phận Gì Đối Với Người Xung Quanh?”

Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi của nhà thông luật. Thay vào đó, Ngài kể một câu chuyện. Trong câu chuyện đó, người thân cận không phải là kẻ đồng hương, đồng tộc, hay đồng đạo, mà lại chính là một người Sa-ma-ri – kẻ thù truyền kiếp của người Do Thái. Người Sa-ma-ri đó đã không hỏi ai là người thân cận của mình, không tính toán xem người bị nạn có phải là kẻ thù hay không, mà đã hành động dựa trên lòng trắc ẩn và tình yêu thương vô vị lợi.

Câu chuyện này là lời mời gọi mạnh mẽ: “Đừng hỏi ai là người thân của tôi, đừng chỉ nghĩ đến bản thân và lợi ích riêng mà phải nghĩ đến người khác: tôi có bổn phận gì đối với người xung quanh?” Câu hỏi này giúp chúng ta thay đổi góc nhìn, chuyển từ tư duy ích kỷ, qui về mình sang tư duy vị tha, nghĩ đến quyền lợi của anh em mình trước. Như vậy, Chúa Giêsu muốn mỗi người phải từ bỏ tính ích kỷ cố hữu của bản thân, thay vì luôn đặt câu hỏi “Tôi được gì?”, hãy tự vấn “Tôi có thể làm gì cho người khác?”. Đây là một sự chuyển đổi căn bản trong nhận thức, một cuộc cách mạng trong trái tim mỗi con người.

  1. Chúa Giêsu – Tấm Gương Vị Tha Cao Cả Nhất

Để làm gương cho chúng ta, chính Chúa Giêsu đã thi hành điều này trước, một cách triệt để và cao cả đến không ngờ.

Tình yêu hy sinh cho kẻ phản bội: Khi loài người, bằng tội lỗi và sự bất tuân, xúc phạm đến Chúa, chúng ta xứng đáng phải chịu hình phạt sự chết đời đời và bị bỏ mặc trong bóng tối. Thế nhưng, Chúa đã không bỏ mặc con người dưới quyền sự chết. Ngài đã không hỏi: “Ai trong số chúng là trung thần, là kẻ không xúc phạm Ta?” Mà Ngài đã hứa ban ơn cứu chuộc, vì Ngài đã yêu thương nhân loại một tình yêu vô bờ bến.

Từ bỏ Ngai Trời vì phần rỗi con người: Chính Ngôi Hai Thiên Chúa đã không giữ Ngai Trời của mình, không bám víu vào địa vị tối cao và vinh quang vô tận của mình. Ngài đã từ bỏ tất cả để bỏ trời xuống thế làm người, chấp nhận kiếp sống hèn mọn, chịu mọi đau khổ để lo cho loài người. Đây là một hành động của tình yêu tột cùng, một sự hy sinh không thể đong đếm, nơi Thiên Chúa hoàn toàn quên mình vì lợi ích của tạo vật.

Ân trả oán, yêu thương kẻ thù: Chúa Giêsu biết rất rõ tương lai của mình: loài người sẽ phản bội Ngài, tiếp tục đối xử bất công với Ngài, và còn vu cáo, giết hại Ngài bởi tay dân ngoại. Ngài biết tất cả những điều đó. Thế nhưng, Ngài không hề nghĩ đến quyền lợi của mình, không hề tìm cách thoát hiểm hay trả thù. Ngài cũng không hỏi: “Ai là anh em, là trung thần của Ngài?” để Ngài ban ơn cứu chuộc cho họ. Trái lại, Ngài muốn làm anh em của chúng ta đang lúc chúng ta còn là thù địch của Ngài, đang lúc chúng ta còn đóng đinh Ngài trên thập giá.

Như vậy, Chúa đã lấy ân trả oán một cách tuyệt đối. Ngài không những tha thứ mọi tội ác của chúng ta mà còn thi ân giáng phúc cho cả loài người. Ngài xuống thế để giảng dạy Lời Sự Sống, chữa lành các bệnh nhân khỏi mọi đau khổ thể xác và tinh thần, và cuối cùng, Ngài đã đổ máu mình ra trên thập giá để rửa sạch mọi tội lỗi của nhân gian. Tình yêu đó vượt lên trên mọi sự thù hận, mọi sự bất công, mọi sự tính toán. Đó là tình yêu làm gương cho chúng ta về cách nhận biết và đối xử với “người thân cận” của mình.

III. Sứ Điệp Vượt Thời Gian: Xây Dựng Một Thế Giới Vị Tha

Câu trả lời của Chúa Giêsu đối với nhà thông luật hôm nay cũng là lời nhắn nhủ thiêng liêng và cấp bách gửi tới mọi người trên trần gian, ở mọi thời đại. Nếu chúng ta, mỗi cá nhân, biết lo cho quyền lợi người khác, muốn làm bạn với mọi người, bất kể họ là ai, thì thế giới này sẽ thay đổi một cách căn bản.

Chấm dứt chiến tranh và hận thù: Sẽ không còn chiến tranh, không còn hận thù, không còn sự tiêu diệt lẫn nhau giữa các dân tộc, các quốc gia, các tôn giáo.

Hiệp nhất và kiến tạo: Các đảng phái không còn thù hằn, không tìm cách tiêu diệt nhau, mà biết xây dựng nhau, coi nhau là anh em, cùng nhau hướng đến mục tiêu chung là sự phát triển và hạnh phúc của xã hội.

Tình huynh đệ trong gia đình và cộng đồng: Mọi đồng bào, mọi người trong gia đình sẽ tự hỏi xem mình đã thực sự coi mọi người là anh em của mình chưa, đã vượt qua được những nhỏ nhen, ích kỷ để sống cho nhau chưa. Từ gia đình, cộng đoàn nhỏ bé đến các quốc gia, đại lục, tình huynh đệ sẽ được nhân rộng.

  1. Nền Tảng Của Tình Yêu Vị Tha: Yêu Mến Thiên Chúa Hết Lòng

Tuy nhiên, thực tế điều này không phải dễ làm. Con người, với bản tính yếu đuối và khuynh hướng ích kỷ do tội lỗi gây ra, khó có thể tự mình vượt qua những rào cản của lợi ích cá nhân, sự sợ hãi và lòng thù hận để coi mọi người là anh em và đối xử với mọi người trong tình yêu thương.

Chìa khóa để thực hiện điều đó nằm ở giới răn trọng nhất: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi.” (Đnl 6:5; Mt 22:37-38). Chỉ khi chúng ta thực sự tin thờ Chúa, tuyên xưng Thiên Chúa là Cha – Đấng đã tạo dựng tất cả, thì từ đó, chúng ta mới nhận ra mọi người là anh em của mình, cùng một Cha trên trời.

Nhận ra Cha chung: Khi chúng ta thực sự yêu mến Thiên Chúa là Cha, chúng ta sẽ nhìn thấy hình ảnh của Ngài trong mỗi người, kể cả kẻ thù. Mọi người đều là con cái của cùng một Cha, và vì thế, họ là anh em của chúng ta. Tình yêu đối với Thiên Chúa sẽ mở rộng trái tim chúng ta để yêu thương tha nhân một cách vô điều kiện, bởi vì tha nhân chính là hiện thân của Thiên Chúa mà chúng ta yêu mến.

Hậu quả của việc từ chối Thiên Chúa: Ngược lại, ai từ chối Thiên Chúa là Cha thì không thể nhìn thấy mọi người là anh em của mình, nhất là những kẻ thù nghịch mình! Đối với những ai từ chối Thiên Chúa, họ sẽ mãi mãi bị giam hãm trong vòng luẩn quẩn của lợi danh. Ngày nào họ còn từ chối Thiên Chúa, họ sẽ không yêu thương được người khác cách chân thành mà chỉ giao tiếp dựa trên lợi ích: vì tiền, vì chức, vì một lợi lộc nào đó. Họ sẽ đối xử với nhau theo kiểu mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé. Khá lắm cũng chỉ là thương hại, bố thí chút cho kẻ bần cùng, cho đi phần dư thừa của mình, chứ không tôn trọng tha nhân đúng mức. Tình yêu của họ mang tính toán, và lòng bác ái của họ chỉ là bề ngoài.

  1. Lời Mời Gọi Trở Về Với Chúa Và Sống Giới Răn Yêu Thương

Lời Chúa hôm nay nhắc bảo chúng ta đừng chỉ lo cho bản thân, đừng chỉ nhìn vào quyền lợi riêng của mình, nhưng hãy biết nghĩ đến anh em đồng loại như chính Chúa đã thương xót chúng ta. Chúng ta cũng hãy thương mến mọi người như anh em của mình, không phân biệt chủng tộc, màu da, tôn giáo, địa vị xã hội hay thậm chí là quá khứ.

Điều này, tưởng chừng khó khăn đến bất khả thi, nhưng lại hoàn toàn có thể thực hiện được. Bài đọc I trong sách Đệ Nhị Luật đã trấn an chúng ta: “Thánh chỉ Ta truyền cho các ngươi hôm nay không quá khó, cũng không quá sức các ngươi. Lời Chúa ở sát bên các ngươi, trong lòng các ngươi, để các ngươi thực thi” (Đnl 30:10-14).

Lời Chúa trong lương tâm: Lời Chúa nói trong lương tâm mỗi người, vang vọng trong thẳm sâu tâm hồn chúng ta. Cho dù người đó tuyên bố mình vô thần hay không tin Chúa, nhưng trong lòng họ vẫn cảm thấy một điều gì đó linh thiêng trong thế giới này – một tiếng nói về cái thiện, về công lý, về tình người. Và vì vậy, họ kiếm tìm một tín ngưỡng, một ý nghĩa, một chỗ dựa tinh thần để lấp đầy khoảng trống trong tâm hồn. Đó chính là cách Thiên Chúa vẫn đang gõ cửa trái tim họ.

Trở về cùng Chúa: Giới răn yêu thương Thiên Chúa và yêu người không phải là một gánh nặng, mà là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực. Nó không phải là một công thức phức tạp, mà là sự trở về với căn tính đích thực của con người: được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, được mời gọi sống trong tình yêu.

Kết Luận: Trở Thành Dấu Chỉ Yêu Thương Của Thiên Chúa

Vậy chúng ta hãy cầu xin cho mọi người trên thế giới, dù đã biết Chúa hay đang từ chối Chúa, biết nhận ra nguồn cội của mình, biết rằng họ là con cái của cùng một Cha trên trời. Xin cho mọi người chúng ta, là những người đã tuyên xưng lòng tin vào Chúa, biết giữ giới răn Kính Chúa Yêu Người một cách trọn vẹn, không chỉ bằng lời nói mà bằng chính hành động cụ thể trong đời sống hàng ngày.

Xin cho chúng ta trở nên những dấu chỉ yêu thương giữa lòng thế giới hôm nay, nơi mà sự chia rẽ, hận thù và ích kỷ vẫn đang hoành hành. Bởi vì, khi mỗi người chúng ta dám sống giới răn yêu thương, dám coi mọi người là anh em, dám quên đi lợi ích bản thân để nghĩ đến tha nhân, thì khi đó, thế giới sẽ thực sự trở thành Nước Trời ngay tại trần gian này. Đó chính là câu trả lời trọn vẹn nhất cho câu hỏi “Ai là người thân cận của tôi?” mà Chúa Giêsu muốn chúng ta sống và làm chứng.

Lm. Anmai, CSsR

DỤ NGÔN NGƯỜI LÁNG GIỀNG: MỘT ĐỊNH NGHĨA BẤT NGỜ

Dụ ngôn này quen thuộc và để lại ấn tượng mạnh mẽ, đến nỗi trong nhiều ngôn ngữ, việc nói “ông ta là một người Samari nhân lành” có nghĩa là nói rằng ông ta đã giúp đỡ người khi cần. Trong câu chuyện, người Samari đã dừng lại và giúp đỡ người đàn ông bị bọn trộm cướp đánh đập và tước đoạt tất cả. Chính ông là người láng giềng tốt mà Chúa Giêsu muốn nói đến, ngay cả khi người Samari này không hề biết nạn nhân xấu số, và nạn nhân xấu số cũng không hề biết người Samari.

Trong các dụ ngôn của mình, Chúa Giêsu thường đưa ra một “đường vòng không ngờ”, một sự đảo lộn mọi suy nghĩ và định kiến thông thường. Và đường vòng cho dụ ngôn này chính là ý nghĩa mà Chúa Giêsu trao cho từ “láng giềng”. Sự kiện anh hùng lại là một người Samari. Hãy nhớ rằng câu chuyện này được kể cho người Do Thái, những người vốn khinh bỉ và xa lánh người Samari. Người Do Thái nhìn người Samari như những kẻ phản bội, những kẻ thờ tà thần, dòng máu pha tạp và không xứng đáng. Những thính giả đang lắng nghe Chúa Giêsu hẳn phải bị sốc rất nặng. Chắc chắn họ đã tức giận khi Ngài đề nghị cho họ một mẫu gương về lòng tốt lại là một người Samari anh hùng. Đây là một sự thách thức trực diện đến định kiến và sự tự mãn của họ.

Nhưng câu chuyện không chỉ dừng lại ở đó. Một số giáo phụ tiên khởi của Giáo Hội đã đặt một “đường vòng” khác, một tầng ý nghĩa sâu sắc hơn vào câu chuyện này. Các Giáo phụ đã nhìn thấy người mà chúng ta gọi là Người Samari nhân lành chính là hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô. Nói cách khác, các giáo phụ nghĩ rằng nếu có một con người được giới thiệu cho chúng ta là người luôn giúp đỡ, thì đó chính là Chúa Giêsu, và Ngài đã luôn làm điều đó cho nhân loại.

Hãy nhìn vào tình trạng của loài người chúng ta. Nòi giống con người bị thoái hóa vì tội lỗi. Tội lỗi đã tước đoạt nơi chúng ta mọi giá trị nguyên thủy mà Thiên Chúa ban tặng khi tạo dựng. Nó đã cướp mất khỏi chúng ta ân sủng của Thiên Chúa, khiến chúng ta trần trụi và yếu đuối. Tội lỗi đã tấn công chúng ta một cách khốc liệt, khiến tất cả chúng ta đều giống như một người dở sống dở chết, nằm thoi thóp bên vệ đường cuộc đời, không thể tự mình đứng dậy.

Và rồi, Chúa Giêsu đã đến. Ngài là Người Samari nhân lành đích thực của chúng ta. Ngài không chỉ nâng chúng ta dậy trên một con vật, mà Ngài đã nâng chúng ta dậy trên chính đôi vai của Ngài, gánh lấy tội lỗi và đau khổ của chúng ta. Ngài mang chúng ta đến với Giáo Hội, như người Samari mang nạn nhân đến quán trọ, để chúng ta có thể được chăm sóc, được chữa lành cho đến khi Ngài trở lại trong vinh quang vào Ngày Phục Sinh của chúng ta.

Sau khi mang chúng ta vào trong Giáo Hội, Chúa Giêsu đã không để mặc chúng ta một mình trên con đường của Ngài. Ngài đã hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Ngài hiện diện và hành động không ngừng qua sứ vụ của Giáo Hội.

Trong phép rửa, Chúa Giêsu đã chữa lành mọi vết thương do tội lỗi để lại, phục hồi sự sống của ân sủng và ban cho chúng ta giá trị đích thực là con cái của Thiên Chúa. Và trong phép Thêm sức, Chúa đã tăng sức cho đời sống ân sủng bên trong chúng ta, Ngài đã củng cố căn tính của chúng ta như là con cái của Thiên Chúa và là những người thừa tự Nước Trời. Chúa Giêsu đến với chúng ta trong Giáo Hội không chỉ qua các nghi lễ, mà còn qua Lời hằng sống và các bí tích. Lời của Thánh Kinh soi sáng và dẫn lối cho chúng ta, và bí tích Thánh Thể, chính Mình và Máu Người, là nguồn lương thực thần linh nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của chúng ta, giúp chúng ta luôn kiên vững trên hành trình đức tin.

Từ “láng giềng” theo nghĩa đen là một người ở gần bên chúng ta. Nhưng Chúa Giêsu đã minh chứng chính Người còn hơn là một láng giềng nữa, hơn là một người nào đó ở gần chúng ta. Ngài đã làm cho chúng ta trở nên thành phần của Thân Thể mầu nhiệm của Ngài là Giáo Hội. Trong Ngài, chúng ta tiếp tục hiện hữu, tiếp tục sống và lớn lên, như bài đọc II đã dạy chúng ta: “Ngài là Đầu của thân thể là Giáo Hội” (Cl 1, 18).

Anh chị em thân mến, khi chúng ta bước đi trong đời sống này, tội lỗi vẫn còn tiếp tục rình rập, tàn phá và làm tổn hại chúng ta. Chúng đang chờ đợi một khoảnh khắc bất ngờ, một phút giây chểnh mảng để có thể tấn công chúng ta vào lúc chúng ta yếu đuối nhất. Cuộc chiến thiêng liêng vẫn tiếp diễn.

Nhưng chúng ta không bao giờ đơn độc trong cuộc chiến đấu của mình. Thật sống động khi chúng ta học bài học của bài Thánh Vịnh ngày hôm nay: “Hãy hướng về Chúa những khi bạn cần và bạn sẽ sống.” Khi chúng ta hướng về Chúa, chúng ta sẽ nhận thấy rằng Ngài không quá mầu nhiệm và xa xôi khỏi chúng ta. Ngài ở ngay bên cạnh, luôn sẵn lòng nâng đỡ. Chúa Giêsu không chỉ đơn giản là một người Samari nhân lành, Ngài là Người Tốt Nhất, là Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta.

Hãy luôn tin tưởng và phó thác vào Ngài, vì chỉ trong Ngài, chúng ta mới tìm thấy sự bình an, chữa lành và sự sống vĩnh cửu.

Lm. Anmai, CSsR

CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI

Từ thuở hồng hoang, con người đã luôn khao khát một cuộc sống vĩnh cửu, một hạnh phúc bất tận, một sự sống không bị giới hạn bởi thời gian hay cái chết. Khát vọng trường sinh bất tử không chỉ là giấc mơ của các bậc vua chúa, những nhà hiền triết, mà còn là ước nguyện sâu kín trong lòng mỗi con người, từ mọi thời đại, mọi nền văn hóa. Trong bài giảng hôm nay, chúng ta cùng suy ngẫm về câu hỏi muôn thuở: “Làm cách nào để được hưởng sự sống đời đời?” Câu hỏi này đã được một thầy thông luật đặt ra với Chúa Giêsu, và qua dụ ngôn về người Samaria nhân hậu, Chúa đã chỉ cho chúng ta con đường dẫn đến sự sống vĩnh cửu.

Câu chuyện người Samaria nhân hậu không chỉ là một câu chuyện cảm động về lòng trắc ẩn, mà còn là một bài học sâu sắc về cách sống, cách yêu thương, và cách bước đi trên con đường dẫn đến Nước Trời. Hôm nay, chúng ta sẽ cùng khám phá con đường ấy, con đường mà Chúa Giêsu gọi là “con đường của trái tim.”

Câu chuyện mà Chúa Giêsu kể lại là một câu chuyện rất đỗi bình thường, có thể xảy ra bất kỳ lúc nào trong đời sống hằng ngày. Một người đàn ông từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, trên một con đường dài và hiểm trở. Con đường này không chỉ gập ghềnh, khó đi, mà còn đầy rẫy nguy hiểm. Quả nhiên, người đàn ông bị cướp tấn công, bị đánh đập dã man, bị cướp hết tài sản, và bị bỏ lại bên vệ đường, dở sống dở chết, chỉ còn biết rên rỉ trong đau đớn.

Ba nhân vật đi ngang qua người bị nạn, nhưng mỗi người lại có một thái độ khác nhau:

Thầy tư tế: Ông là người có địa vị, có kiến thức về lề luật, và thường xuyên phục vụ trong đền thờ. Khi thấy người bị nạn, ông không dừng lại, mà vội vàng tránh sang bên kia đường để tiếp tục hành trình của mình.

Thầy Lêvi: Cũng giống như thầy tư tế, thầy Lêvi là người hiểu biết và có trách nhiệm trong các công việc tôn giáo. Nhưng ông cũng chọn cách lảng tránh, không muốn dính líu đến người bị nạn.

Người Samaria: Khác với hai nhân vật trước, người Samaria là một người ngoại đạo, bị dân Do Thái xem thường. Thế nhưng, chính ông đã dừng lại. Ông không chỉ dừng lại để nhìn, mà còn chạnh lòng thương, băng bó vết thương cho nạn nhân, đưa nạn nhân đến quán trọ, và thậm chí trả tiền để nhờ chủ quán chăm sóc người bị nạn cho đến khi bình phục.

Qua câu chuyện này, Chúa Giêsu không chỉ kể một câu chuyện về lòng nhân ái, mà còn chỉ cho chúng ta con đường dẫn đến sự sống đời đời. Con đường ấy không phải là một con đường dễ dàng, nhưng là con đường mà bất kỳ ai, với một trái tim nhân hậu, đều có thể bước đi.

Con đường từ Giêrusalem xuống Giêrikhô trong dụ ngôn không chỉ là một con đường địa lý, mà còn là biểu tượng cho hành trình cuộc đời của mỗi người chúng ta. Đó là con đường dẫn đến Nước Trời, nơi mà sự sống đời đời đang chờ đợi. Nhưng con đường ấy không hề bằng phẳng hay an toàn. Nó có những đặc điểm sau:

Gập ghềnh và khó đi: Cuộc sống của chúng ta đầy những thử thách, những khó khăn, và những trở ngại. Có những lúc chúng ta cảm thấy mệt mỏi, chán nản, muốn bỏ cuộc.

Nguy hiểm với trộm cướp rình rập: Trên hành trình ấy, chúng ta có thể gặp phải những cám dỗ, những lầm lạc, hoặc những tổn thương khiến chúng ta ngã quỵ.

Thử thách liên tục: Con đường này đòi hỏi chúng ta phải đối diện với những lựa chọn khó khăn, những tình huống buộc chúng ta phải quyết định giữa cái đúng và cái sai, giữa lòng ích kỷ và tình yêu thương.

Để vượt qua những thử thách ấy, chúng ta không thể dựa vào sức mạnh thể chất, sự giàu có, hay kiến thức uyên thâm. Vũ khí duy nhất hữu ích, như Chúa Giêsu đã chỉ ra, chính là trái tim. Một trái tim nhân hậu, nhạy bén, quan tâm, và chung thủy sẽ dẫn chúng ta đến đích.

Qua hình ảnh người Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu đã vẽ nên chân dung của một trái tim chiến thắng – trái tim có khả năng dẫn chúng ta đến sự sống đời đời. Trái tim ấy cần có ba phẩm chất quan trọng:

Người Samaria nhân hậu sở hữu một trái tim nhạy bén, một trái tim có khả năng nhìn thấy và lắng nghe những nỗi đau mà người khác không nhận ra. Trong khi thầy tư tế và thầy Lêvi đi ngang qua mà không màng đến người bị nạn, người Samaria, dù đang bận rộn, dù đang vội vã trên hành trình của mình, vẫn nhận ra người bị nạn nằm bên vệ đường.

Nhìn bằng trái tim: Dù tiếng vó ngựa lộp cộp, dù gió thổi vù vù, ông vẫn nghe được tiếng rên rỉ yếu ớt của người bị nạn. Đôi mắt của ông không chỉ nhìn thấy hình ảnh một người nằm đó, mà còn nhìn thấy nỗi đau, sự tuyệt vọng, và nhu cầu cấp bách của họ.

Lắng nghe bằng trái tim: Trái tim nhạy bén của ông có đôi tai thính lạ lùng, có thể nghe được những tiếng kêu cứu thầm lặng từ đáy lòng. Nó có đôi mắt sáng lạ lùng, có thể nhìn thấy những vết thương không hiện hữu trên thân thể, mà nằm sâu trong tâm hồn.

Ngược lại, thầy tư tế và thầy Lêvi, dù có đôi mắt và đôi tai khỏe mạnh, lại không nhìn thấy, không nghe thấy. Không phải vì họ không có khả năng, mà vì trái tim của họ đã bị đóng kín. Họ sợ rằng nếu dừng lại, nếu chạm vào người bị nạn, họ sẽ trở nên ô uế, không thể tiếp tục công việc tôn giáo của mình. Những lề luật, những quy tắc cứng nhắc đã khiến trái tim họ trở nên lạnh lùng, vô cảm.

Bài học cho chúng ta là gì? Trong cuộc sống hằng ngày, có biết bao người đang cần được giúp đỡ, đang kêu cứu bằng những cách thầm lặng. Đó có thể là một người bạn đang chìm trong nỗi buồn, một người lạ đang cần một bàn tay chìa ra, hoặc một người thân đang chờ đợi sự quan tâm của chúng ta. Để trở thành người Samaria nhân hậu, chúng ta cần rèn luyện một trái tim nhạy bén, biết nhìn và biết nghe bằng tình yêu.

Trái tim nhạy bén thôi chưa đủ. Một trái tim quan tâm mới là trái tim biết hành động, biết đến gần, và biết làm tất cả để giúp đỡ người khác. Người Samaria không chỉ nhìn thấy người bị nạn, mà còn dừng lại, đến gần, và chăm sóc họ. Ông không ngại mất thời gian, không ngại tốn kém, không ngại phiền phức. Ông mang theo dầu và băng vải, xoa bóp vết thương, băng bó cẩn thận, và đưa người bị nạn lên ngựa của mình để chở đến quán trọ.

Hành động với tình yêu: Hành động của người Samaria không xuất phát từ nghĩa vụ hay sự ép buộc, mà từ một trái tim quan tâm chân thành. Ông không phải là bác sĩ, không được đào tạo y khoa, nhưng ông đã chăm sóc nạn nhân một cách thành thạo, như thể trái tim của ông biết chính xác phải làm gì.

Sẵn sàng hy sinh: Vì quan tâm, ông sẵn sàng hy sinh thời gian, tiền bạc, và công sức của mình. Ông không chỉ làm những gì cần thiết, mà còn làm với tất cả nhiệt huyết và sự cẩn trọng.

Ngược lại, thầy tư tế và thầy Lêvi, dù có thể đã nhìn thấy người bị nạn, lại chọn cách tránh xa. Họ sợ phiền hà, sợ rắc rối, sợ làm gián đoạn hành trình của mình. Trái tim của họ thiếu đi sự quan tâm, nên họ không thể hành động vì người khác.

Bài học cho chúng ta là gì? Một trái tim quan tâm không chỉ dừng lại ở việc cảm thông hay thương xót. Nó phải dẫn chúng ta đến hành động cụ thể: một lời an ủi, một cử chỉ giúp đỡ, một sự hy sinh để nâng đỡ người khác. Trong thế giới đầy bận rộn và ích kỷ hôm nay, chúng ta cần rèn luyện một trái tim quan tâm, luôn sẵn sàng đến gần và phục vụ anh em.

Một trái tim nhạy bén và quan tâm sẽ không trọn vẹn nếu thiếu đi sự chung thủy. Người Samaria không chỉ giúp đỡ người bị nạn trong giây phút cấp bách, mà còn lo lắng cho họ đến tận cùng. Sau khi đưa nạn nhân đến quán trọ, ông trả tiền cho chủ quán và dặn dò kỹ lưỡng: “Hãy chăm sóc người này, nếu tốn kém thêm, tôi sẽ trả khi trở lại.” Dù bận rộn với công việc của mình, ông vẫn hứa sẽ quay lại để đảm bảo rằng người bị nạn được chăm sóc đầy đủ.

Không làm nửa vời: Trái tim chung thủy không bỏ dở giữa chừng, không làm việc qua loa. Người Samaria đã đi đến cùng trong việc giúp đỡ, không để người bị nạn rơi vào cảnh cô đơn hay thiếu thốn.

Theo dõi và chăm sóc: Sự chung thủy của ông thể hiện ở việc ông không quên người bị nạn sau khi rời đi. Ông tiếp tục nghĩ về họ, lo lắng cho họ, và cam kết quay lại để hỗ trợ thêm nếu cần.

Ngược lại, nếu thầy tư tế hay thầy Lêvi có dừng lại, có lẽ họ chỉ làm qua quýt để an tâm lương tâm, rồi nhanh chóng bỏ đi. Nhưng người Samaria đã làm với một trái tim chung thủy, một trái tim không mỏi mệt, không buông xuôi.

Bài học cho chúng ta là gì? Trong cuộc sống, chúng ta thường dễ bắt đầu một việc tốt, nhưng lại khó duy trì nó đến cùng. Một trái tim chung thủy đòi hỏi chúng ta phải kiên trì, phải theo dõi, và phải tiếp tục yêu thương ngay cả khi công việc trở nên khó khăn hay tốn kém. Đó là cách chúng ta xây dựng những mối quan hệ bền vững và mang lại ý nghĩa thực sự cho cuộc sống.

Qua dụ ngôn người Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng con đường dẫn đến sự sống đời đời không phải là một con đường xa lạ hay bí ẩn. Nó chính là con đường mà chúng ta đang đi mỗi ngày – con đường của cuộc sống, của những gặp gỡ, của những lựa chọn. Nhưng điều làm nên sự khác biệt là cách chúng ta bước đi trên con đường ấy. Chỉ những ai mang theo một trái tim nhân hậu mới có thể đến được đích.

Thầy tư tế và thầy Lêvi: Họ đã đi trên con đường Giêrikhô, nhưng họ đã rẽ sang một hướng khác, hướng của sự vô cảm và ích kỷ. Họ có kiến thức, có địa vị, có lề luật, nhưng họ thiếu trái tim. Vì thế, con đường của họ không dẫn đến sự sống đời đời.

Người Samaria: Ông đã đi đến đích, không phải vì ông giàu có hay thông thái, mà vì ông đi với một trái tim nhân hậu. Trái tim ấy nhạy bén để nhìn thấy nỗi đau, quan tâm để hành động, và chung thủy để yêu thương đến cùng. Với trái tim ấy, ông đã yêu thương người thân cận như chính mình, và qua đó, ông đã mở ra con đường dẫn đến sự sống vĩnh cửu.

Chúa Giêsu kết thúc dụ ngôn bằng một lời mời gọi: “Hãy đi và làm như vậy.” Lời mời gọi ấy không chỉ dành cho thầy thông luật, mà còn dành cho mỗi người chúng ta. Chúa không yêu cầu chúng ta phải làm những điều vĩ đại hay phi thường. Ngài chỉ yêu cầu chúng ta sống với một trái tim nhân hậu, biết nhìn, biết nghe, biết hành động, và biết yêu thương đến cùng.

Làm thế nào để chúng ta có thể sống theo gương người Samaria nhân hậu trong cuộc sống hôm nay? Dưới đây là một số gợi ý cụ thể:

Rèn luyện trái tim nhạy bén:

Dành thời gian để lắng nghe người khác, không chỉ nghe lời nói, mà còn nghe những cảm xúc, những nỗi đau thầm kín.

Quan sát xung quanh để nhận ra những người đang cần sự giúp đỡ, dù đó là một người thân, một người bạn, hay một người lạ.

Cầu nguyện để Chúa ban cho chúng ta một trái tim nhạy bén, biết nhìn và biết nghe bằng tình yêu.

Nuôi dưỡng trái tim quan tâm:

Thực hiện những hành động yêu thương nhỏ bé mỗi ngày: một lời khích lệ, một cử chỉ giúp đỡ, một nụ cười thân thiện.

Không ngại hy sinh thời gian, công sức, hay tài sản của mình để giúp đỡ người khác.

Học cách đặt mình vào vị trí của người khác để hiểu và chia sẻ với họ.

Giữ vững trái tim chung thủy:

Kiên trì trong những việc tốt mà chúng ta đã bắt đầu, dù có khó khăn hay tốn kém.

Xây dựng những mối quan hệ bền vững bằng cách tiếp tục quan tâm, theo dõi, và hỗ trợ người khác.

Luôn nhớ rằng tình yêu thương chân thành không bao giờ bỏ cuộc.

Sống với trái tim của Chúa:

Hãy để Chúa Giêsu là nguồn cảm hứng và sức mạnh cho trái tim của chúng ta. Qua cầu nguyện, Bí tích Thánh Thể, và việc đọc Lời Chúa, chúng ta có thể học cách yêu thương như Ngài đã yêu thương.

Hãy để trái tim của chúng ta tham dự vào mọi suy nghĩ, lời nói, và hành động, để mọi việc chúng ta làm đều phản ánh tình yêu của Thiên Chúa.

Khát vọng trường sinh bất tử, khát vọng được sống đời đời, không phải là một giấc mơ xa vời. Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta con đường dẫn đến sự sống vĩnh cửu – con đường của trái tim. Con đường ấy không dễ dàng, nhưng nó luôn mở rộng cho những ai sẵn sàng bước đi với một trái tim nhân hậu, nhạy bén, quan tâm, và chung thủy.

Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta: “Hãy bắt chước người Samaria nhân hậu. Hãy lên đường với trái tim. Hãy lắng nghe với trái tim. Hãy hành động với trái tim. Hãy để trái tim dẫn dắt bạn trên mọi nẻo đường.” Khi chúng ta sống với trái tim, chúng ta không chỉ mang lại niềm vui và hy vọng cho người khác, mà còn tiến gần hơn đến Nước Trời, nơi mà sự sống đời đời đang chờ đợi.

Hãy mang theo trái tim trên hành trình cuộc đời. Hãy để trái tim yêu thương, trái tim của Chúa, hướng dẫn từng bước chân của bạn. Đó chính là con đường dẫn đến sự sống đời đời.

Lm. Anmai, CSsR

Back To Top