GIA ĐÌNH MỚI CỦA CHÚA GIÊSU: VÂNG LÀM Ý CHA…

10 bài suy niệm lễ kính Thánh Gio-a-kim và Thánh An-na (Lm. Anmai, CSsR)
CÓ PHÚC VÌ ĐƯỢC THẤY VÀ NGHE: HẠNH PHÚC TỘT ĐỈNH LÀ CÓ CHÚA GIÊSU
Trong niềm hân hoan của ngày lễ kính Thánh Gio-a-kim và Thánh An-na, song thân của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a và là ông bà ngoại của Chúa Giê-su, chúng ta cùng nhau suy niệm về những bài Lời Chúa được công bố trong Thánh Lễ hôm nay. Dù Tin Mừng không trực tiếp nhắc đến hai vị thánh này, và những chi tiết về đời sống các ngài chủ yếu được biết đến qua một số nguồn không thuộc Quy Điển Thánh Kinh, nhưng cuộc đời các ngài vẫn là một minh chứng sống động cho một cuộc đời “có phúc”.
Hôm nay, chúng ta không đi sâu vào những chi tiết lịch sử về hai vị thánh, nhưng sẽ cùng nhau gợi lên ba cấp độ của một cuộc đời có phúc dưới ánh sáng Lời Chúa, để từ đó chúng ta nhận ra những hồng ân Thiên Chúa ban cho mình với tư cách là người Kitô hữu.
Bài đọc một, trích sách Huấn Ca chương 44 từ câu 1, câu 10 đến 15, là một bài ca ngợi hùng hồn về các bậc tiền nhân, các tổ tiên của dân tộc Ít-ra-en. Đây là một trong những đoạn văn đẹp nhất trong Kinh Thánh, tôn vinh những người đã sống một cuộc đời mẫu mực và để lại di sản thiêng liêng cho các thế hệ sau.
Điểm thứ nhất nổi bật nơi các ngài, và cũng là điều đáng được các thế hệ ghi nhớ và noi gương, đó là một cuộc đời đạo hạnh. Sách Huấn Ca ca ngợi: “Các ngài là những người đạo hạnh”. Các ngài là những con người đạo đức, nghĩa là có một cuộc sống thánh thiện trong mối tương giao sâu sắc với Thiên Chúa, luôn sống theo Ý Ngài. Đồng thời, cuộc sống của các ngài cũng đầy những phẩm hạnh cao quý trong mối liên hệ với tha nhân, thể hiện qua lòng công chính, tình yêu thương, sự khôn ngoan và lòng quảng đại. Các nhân đức đã hội tụ cách hài hòa nơi đời sống của các ngài, vì thế cuộc sống đó thật tốt đẹp, là tấm gương sáng chói cho các thế hệ nối tiếp.
Sự tri ân của các thế hệ đối với những bậc tiền nhân đạo hạnh được thể hiện cả bên ngoài lẫn bên trong: “Các ngài được mồ yên mả đẹp và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế. Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen”. Điều này cho thấy rằng, một cuộc đời đạo hạnh không chỉ mang lại sự bình an cho người sống, mà còn có ảnh hưởng tốt đẹp và lâu dài đến các thế hệ con cháu. Danh thơm của các ngài không phải là danh vọng phù phiếm, mà là sự tôn vinh đến từ những giá trị sống cao đẹp mà các ngài đã để lại. Họ sống mà không cần danh tiếng, nhưng danh tiếng và sự ngưỡng mộ tự nhiên đến từ phẩm hạnh và tác động tích cực của họ.
Những yếu tố trên diễn tả một cuộc đời có phúc theo một chiều kích sâu sắc. Nơi đây, tác giả không đề cập đến những yếu tố vật chất như tiền bạc, ruộng vườn, không nói đến động sản hay bất động sản, mà là những yếu tố tinh thần và thiêng liêng. Đó là những tài sản vô giá, “phi vật thể”, mà các ngài để lại cho hậu thế. Một cuộc đời có phúc không chỉ là một cuộc đời có phúc cho chính mình, mà còn là một cuộc đời có phúc cho các thế hệ tương lai. Đó chính là cuộc nhân sinh của các thánh nhân: các ngài là thánh trước tôn nhan Thiên Chúa và thánh trước mặt người đời. Các ngài là những người sống những điều làm nên mối phúc và để lại phúc cho những người đến sau mình. Đó chính là cấp độ thứ nhất của cái “phúc”. Chúng ta hãy biết tri ân và ghi nhớ đời sống đạo hạnh của các tiền nhân và các thánh nhân trong Giáo Hội. Các ngài là một trong những gia tài cao quý của chúng ta, là nguồn cảm hứng bất tận để chúng ta sống tốt hơn mỗi ngày.
Cái phúc thứ hai mà các tiền nhân, các tổ tiên sở hữu, đó là dòng dõi của các ngài. Trong trích đoạn Sách Huấn Ca, dòng dõi đó là dân tộc Ít-ra-en, một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn.
Dòng dõi này trước hết là những con người bằng xương bằng thịt, nghĩa là những người phát xuất từ cùng một huyết thống: “Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài cao quí, đó là lũ cháu đàn con”. Đây là phúc lành của Thiên Chúa, khi Thiên Chúa ban cho dòng giống được sinh sôi nảy nở đông đảo qua các thế hệ. Sự phong phú về con cháu không chỉ là về số lượng, mà còn về chất lượng đời sống tâm linh.
Nhưng đâu là phẩm hạnh cốt lõi của dòng dõi này? “Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước, nhờ các ngài mà con cháu cũng một mực trung thành”. Đây là một sự kế thừa tốt đẹp không phải về của cải vật chất, mà là về di sản đức tin và lòng trung thành với Thiên Chúa. Nó có nghĩa là một sự trung thành đi trên con đường giao ước với Thiên Chúa, con đường tuân giữ các thánh chỉ, mệnh lệnh và giới luật của Thiên Chúa. Những gì làm nên đời sống thánh thiện của các bậc tiền nhân đã được truyền lại và nối kết các ngài với dòng dõi các ngài.
Như vậy, dòng dõi của các ngài sẽ tồn tại, không những trong thời gian mà nhất là trong điều làm nên một dân tộc thánh thiện, một dân của Thiên Chúa. Sự tồn tại này không chỉ là sự tiếp nối về mặt sinh học, mà còn là sự kế thừa và duy trì di sản thiêng liêng, làm cho dòng dõi đó thực sự trở thành một dân thánh của Thiên Chúa.
Chúng ta, những người Kitô hữu, cũng được làm nên một dòng dõi đặc biệt, đó là dân tộc thánh, tư tế và vương giả. Đó chính là Giáo Hội. Trong dân này, sự thông hiệp được sống một cách sâu xa và rộng lớn, đó là sự thông hiệp của các thánh, giữa dân thánh. Chắc chắn đời sống của mỗi người đều có tác động trên toàn thể dân thánh. Mỗi chi thể đều có ảnh hưởng trên các chi thể khác và toàn thân thể. Các thánh nhân đã để lại những gia tài cao quý của sự thánh thiện và tạo nên những ảnh hưởng rất tích cực cho các thế hệ, cho chúng ta ngày nay. Đó là cấp độ thứ hai của cái “phúc”.
Ước gì đời sống của chúng ta cũng là một cuộc sống đạo hạnh, để có ảnh hưởng tốt cho người khác, cho xã hội và Giáo Hội. Bởi vì, di sản quý giá nhất mà chúng ta có thể để lại cho thế hệ mai sau không phải là của cải vật chất, mà là một gương sáng về đời sống đức tin, về lòng yêu mến Chúa và tha nhân.
Trong bài Tin Mừng theo thánh Mát-thêu chương 13 từ câu 16 đến 17, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ của Chúa biết cái phúc mà các ông đang được hưởng, một cái phúc vượt xa mọi phúc lành khác: “Mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe”. Vậy, các môn đệ Chúa được thấy ai, được nghe điều gì, để họ được coi là “có phúc”?
Không gì khác hơn, đó là chính Chúa Giêsu. Phúc lớn nhất của người môn đệ là được thấy Chúa. Phúc lớn nhất của người môn đệ là được nghe Chúa, nghe lời Chúa. Hai quan năng nghe nhìn là cách nói bao gồm tất cả con người, từ thể lý đến tâm linh. Như vậy, môn đệ có phúc vì có Chúa Giêsu. Đây là hạnh phúc lớn nhất của những môn đệ Chúa, mà bao vị tiền nhân, tổ tiên của họ, không được hạnh phúc đó.
Chúa Giêsu khẳng định điều này một cách rõ ràng: “Quả thế, Thầy bảo thật anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe”. Những tổ tiên của họ, những con người đạo hạnh nhất như các ngôn sứ và các chính nhân, đã hằng khao khát và mong chờ ngày Đấng Mê-si-a xuất hiện. Họ chỉ nhìn từ xa “ngày của Chúa”, như chính trường hợp của tổ phụ Ap-ra-ham. Các tổ tiên khao khát nhưng không được thấy và nghe Đấng Mê-si-a, Đấng Ki-tô hiện diện cách cụ thể. Trái lại, những ai mong chờ mà đã gặp được Chúa, thì họ mãn nguyện. Đó là trường hợp của cụ Si-mê-on và cụ An-na (x.Lc 2,22-38), những người đã được diễm phúc bồng ấu Chúa Giêsu trên tay mình. Họ mãn nguyện và ra đi bình an, vì đã thấy: “Muôn lạy Chúa, giờ đây, theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân…”
Như vậy, hạnh phúc lớn nhất là có Chúa Giêsu, là được thấy Chúa, là được nghe Chúa. Đó cũng là hạnh phúc của chúng ta, những người Kitô hữu hôm nay. Chúng ta đã được biết Chúa. Chúng ta có Chúa, vì là Ki-tô hữu. Chúng ta được nghe Chúa qua Lời Chúa được công bố và suy niệm mỗi ngày.
Chúng ta không thấy Chúa qua con mắt thể lý, như các môn đệ xưa. Nhưng chúng ta thấy Ngài qua đức tin: chúng ta không thấy mà tin. Và đó là cái phúc lớn hơn cái phúc của những người thấy mà tin, như Chúa Phục Sinh đã nói với môn đệ Tô-ma: “Phúc cho những ai không thấy mà tin!” (Ga 20,29). Hay như thánh Phê-rô đã nói đến cái phúc của các Ki-tô hữu: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chứa chan một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người” (1Pr 1,8-9). Chúng ta không nghe những lời từ miệng Chúa một cách trực tiếp, nhưng Kinh Thánh, nhất là Tin Mừng, đó là chính Lời Chúa được ghi lại, là Lời từ miệng Chúa đến với chúng ta qua sự linh hứng của Chúa Thánh Thần.
Như vậy, như các tông đồ, chúng ta có cái phúc lớn nhất là Chúa Giêsu. Chúng ta còn hơn các tông đồ ngày xưa, vì không thấy mà tin, không thấy mà yêu, như chính Chúa khẳng định. Đó là cấp độ thứ ba của cái phúc của Ki-tô hữu.
Chúng ta có Thánh Thể, có Lời Chúa, các Bí Tích và biết bao ân huệ khác, làm nên hạnh phúc của đời Ki-tô hữu. Vậy, chúng ta có cảm nghiệm thấy hạnh phúc đó không? Chúng ta có tiếp cận Chúa Giêsu qua các phương tiện và trung gian như Thánh Thể, Lời Chúa không? Tất cả những gì làm nên hạnh phúc của đời Ki-tô hữu, Thiên Chúa đã trao khi ban cho chúng ta Chúa Giêsu như thánh Phao-lô quả quyết: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con Một đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8,32).
Hôm nay chúng ta mừng lễ hai thánh Gio-a-kim và thánh An-na, song thân của Đức Ma-ri-a. Hai ngài sống sát thời gian Chúa Giêsu nhập thể. Các ngài đã không được hạnh phúc được thấy, được nghe Chúa – mà theo hệ phả, các ngài là ông bà ngoại của Chúa –, tuy rằng đời sống của các ngài đạo hạnh và dòng dõi các ngài là Đức Ma-ri-a đầy tràn ân phúc. Nhưng hạnh phúc lớn nhất đó lại dành cho chúng ta.
Chúng ta phải biết tri ân Thiên Chúa Cha đã ban Con Một cho chúng ta, đồng thời chúng ta phải đến với Chúa Giêsu bằng một cuộc sống thân thiết với Chúa qua cầu nguyện, bằng việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa.
Là Kitô hữu, chúng ta là những người “CÓ PHÚC”, và được mời gọi sống mối phúc “có Chúa” và chia sẻ cái phúc “có Chúa” đó cho anh chị em chúng ta, ngay cả trong những hoàn cảnh đau thương như đại dịch Covid-19 hiện tại hay bất cứ khó khăn nào trong cuộc sống. Chúng ta cần cái phúc “có Chúa” rọi ánh sáng trong cảnh tối tăm của cuộc sống.
Trong một thế giới đầy biến động và bất an, việc có Chúa Giêsu trong cuộc đời là ngọn hải đăng soi đường, là nguồn suối bình an và là niềm hy vọng vững chắc. Chúng ta hãy sống cuộc đời mình sao cho xứng đáng với cái phúc lớn lao đó, để mỗi ngày của chúng ta là một lời tạ ơn, một sự làm chứng cho tình yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa.
Xin Thánh Gio-a-kim và Thánh An-na, những bậc tiền nhân đạo hạnh và gương mẫu, cầu bầu cho chúng ta, để chúng ta luôn biết sống cái phúc được làm con cái Chúa, được có Chúa trong đời, và không ngừng lan tỏa ánh sáng của Ngài đến mọi người xung quanh. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
GIA ĐÌNH – NỀN TẢNG CỦA MỌI XÃ HỘI
Kính thưa quý ông bà và anh chị em thân mến, đặc biệt là quý Hiền mẫu!
Hôm nay, trong niềm hân hoan mừng lễ Thánh Anna, Bổn mạng của Giới Hiền mẫu Giáo họ Trung Nghĩa, chúng ta cùng nhau quy tụ nơi đây để suy niệm về vai trò trọng yếu của gia đình, và đặc biệt là vai trò của người mẹ trong việc giáo dục con cái theo tinh thần Tin Mừng. Đây không chỉ là một buổi lễ kính nhớ vị thánh nhân, mà còn là một cơ hội quý báu để chúng ta nhìn lại, đánh giá và định hướng lại sứ mệnh cao cả của mỗi gia đình Công giáo trong bối cảnh xã hội hiện nay.
Từ xưa tới nay, trong bất cứ xã hội và nền văn hóa nào, thì gia đình luôn đóng vai trò là nền tảng, cơ cấu xã hội đầu tiên để con người được nuôi dưỡng, giáo dục và trưởng thành. Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi đầu tiên con người hình thành nhân cách, học hỏi các giá trị, chuẩn mực đạo đức và văn hóa. Trong ngôi nhà đầu tiên ấy, cha mẹ đóng vai trò là những nhà giáo dục cơ bản và không thể thay thế để con cái bước vào đời. Chính vì vậy, gia đình là môi trường xã hội hóa đầu tiên của trẻ, để chúng được tiếp thu những giá trị, chuẩn mực đạo đức và văn hóa xứng hợp với môi trường mà chúng đang và sẽ bước vào. Nói cách cụ thể thì gia đình chính là ngôi trường đầu tiên giáo dục, đào tạo con người trở thành những nhân tố tương lai của xã hội, của Giáo Hội.
Điều này nói lên thực tế rằng, để giáo dục và huấn luyện con cái trưởng thành về các đức tính nhân bản trong ứng xử với tha nhân (ngũ thường): nhân, nghĩa, lễ, trí, tín; hay với chính mình: cần, kiệm, liêm, chính, dũng và các nhân đức khác, đòi hỏi cha mẹ phải là những tấm gương sáng để con cái soi chiếu, học hỏi và bắt chước. Đặc biệt đối với gia đình Công giáo lại càng khẩn thiết hơn nữa. Ngoài những chuẩn mực nhân bản và đạo đức để con cái trở thành người công dân tốt, thì điều cũng không kém phần quan trọng là giáo dục đức tin. Đây là nền tảng và căn tính của đời sống Kitô giáo, là kim chỉ nam hướng dẫn con cái biết sống theo ý Chúa, nhận biết Chúa là Cha, và bước đi trên con đường của Tin Mừng.
Ý thức được vai trò và sứ mệnh lớn lao cùng với tâm tình như vậy, thánh lễ quan thầy của giới Hiền mẫu Giáo họ Trị sở, mừng kính hai Thánh Anna và Gioakim, là một dấu mốc đáng nhớ đối với những Hiền mẫu Giáo họ suốt chặng đường 15 năm qua. Đây là một hành trình đã qua để những người mẹ, người bà nhìn lại đời sống chứng tá Tin Mừng của mình theo mẫu gương của gia đình Thánh Anna và Gioakim, để kiên tâm với những điều mình đã và đang sống, đồng thời để hướng tới chặng đường phía trước với công cuộc Phúc âm hóa đời sống Giáo hội đã được khởi đi từ việc Phúc âm hóa đời sống gia đình.
Thánh lễ được diễn ra tại nhà thờ Giáo họ Trị sở, Giáo xứ Trung Nghĩa vào tối ngày 29/07/2014, do Cha Quản xứ Phaolô Nguyễn Đức Vĩnh chủ tế, cùng với sự tham dự của các ban ngành và toàn thể bà con giáo dân trong toàn xứ. Đặc biệt với gần 400 thành viên Hiền mẫu giáo họ trong đoàn rước ca nhập lễ đã nói lên lòng hy sinh và tinh thần đoàn kết thương yêu của những người bà, người mẹ. Trước đó, vào lúc 16h30 là bữa tiệc liên hoan tại khuôn viên giáo xứ, một dịp để các Hiền mẫu cùng nhau chia sẻ niềm vui, củng cố tình hiệp nhất và gắn bó.
Những chia sẻ của Cha chủ tế trong thánh lễ đối với chị em đã gợi lên trong cộng đoàn dân Chúa hình ảnh sống động về mẫu gương nên thánh của Anna và Gioakim, song thân của Đức Trinh nữ Maria. Bằng một đời sống bình dị và đặt tất cả niềm tín thác vào Thiên Chúa, hai ông bà dù phải chịu mang tiếng là vô phúc, là son sẻ suốt 20 năm, nhưng không vì thế mà họ mất niềm hy vọng vào Chúa. Cuối cùng, nhờ lòng mến và lòng cậy trông vào Chúa, Thiên Chúa đã gieo hạt giống tốt vào thửa đất của hai ông bà chính là Đức Trinh nữ Maria, Mẹ của Đức Kitô và cũng là Mẹ cả chúng ta nữa. Ông bà chính là cầu nối giữa Cựu Ước và Tân Ước, là những con người công chính, Thánh Gioakim và Thánh Anna đã trở nên đôi bạn đời gương mẫu thánh thiện, là nơi ươm mầm sự hoàn thiện của con gái các ngài.
Qua mẫu gương Thánh nữ Anna khiêm tốn, cậy trông và tín thác, Cha Phaolô đã nhắc nhở các Hiền mẫu về vai trò của giáo dục con cái trong môi trường gia đình theo tinh thần Tin Mừng. Hình ảnh Thánh Anna không chỉ là một người mẹ đã cưu mang và sinh ra Đức Maria, mà còn là một biểu tượng của đức tin vững vàng và lòng kiên nhẫn vô bờ bến. Hai mươi năm chờ đợi trong sự son sẻ, hai mươi năm chịu đựng những lời đàm tiếu, nhưng ông bà Anna và Gioakim vẫn không hề nao núng đức tin. Họ vẫn kiên trì cầu nguyện, vẫn khiêm tốn chấp nhận thánh ý Chúa. Chính sự khiêm tốn ấy đã mở đường cho ơn thánh Chúa làm nên điều kỳ diệu.
Trong bối cảnh xã hội hiện nay, hiện trạng gia đình cho thấy sự băng hoại các giá trị đạo đức, luân lý và biết bao sự ác khác đang lan tràn, ngay cả những nơi mà trước đây được gọi là an toàn, miễn nhiễm. Chúng ta chứng kiến những vụ việc đau lòng về bạo lực gia đình, sự đổ vỡ hôn nhân, những tệ nạn xã hội xâm nhập vào từng ngõ ngách, tác động tiêu cực đến thế hệ trẻ. Một trong những nguyên nhân sâu xa là bắt nguồn từ sự thiếu giáo dục đầy đủ từ gia đình, trẻ lớn lên thiếu mất đi nền tảng về tình cảm, nhân bản và đạo đức. Khi nền tảng này bị lung lay, hoặc thiếu vắng, con trẻ sẽ dễ dàng bị cuốn vào vòng xoáy của những giá trị lệch lạc, thiếu định hướng và mất đi la bàn đạo đức.
Do vậy, hơn bao giờ hết, Năm Phúc âm hóa đời sống gia đình là lời mời gọi, cũng như lời thức tỉnh các bậc cha mẹ ý thức đầy đủ về vai trò và bổn phận của mình trong giáo dục con cái. Làm sao để con cái được sinh ra, lớn lên và được dạy dỗ cách đầy đủ về các chiều kích thể lý, tâm lý, tư duy, nhân bản và đạo đức. Như Thư Chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2013, số 6 đã khẳng định: “Gia đình phải là ngôi trường đầu tiên dạy các đức tính nhân bản và đức tin, là thành trì bảo vệ sự sống thể lý cũng như tinh thần của con cái trước sự tấn công của cái ác và cái xấu trong cuộc sống. Vì thế, các bậc cha mẹ phải ý thức trách nhiệm của mình là những nhà giáo dục đầu tiên và không thể thay thế, bằng chính gương sáng của mình.”
Trong công cuộc Phúc âm hóa đời sống gia đình, người mẹ có một vai trò tối quan trọng. Mẫu gương Thánh Anna thật sự là hình ảnh tuyệt vời cho các bà mẹ noi theo. Nơi Thánh nữ là sự viên mãn các nhân đức, con người được Thiên Chúa chuẩn bị sẵn làm cầu nối để công trình cứu độ được thực hiện. Ngài là người mẹ tuyệt vời và đã cưu mang người con cao cả là Đức Trinh nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Nhìn vào thành quả viên mãn nơi người con là Đức Maria, chúng ta sẽ thấy được những phẩm tính tốt lành, thánh thiện nơi mẹ của Người là Thánh nữ Anna, bởi lẽ “nhìn quả sẽ biết được cây”. Điều này cũng khẳng định rằng người mẹ có một vai trò tối quan trọng trong giáo dục con cái.
Ca dao Việt Nam ta thường nói rất đúng: “con hư tại mẫu, cháu hư tại bà” hay “con dại cái mang”. Những câu nói này tuy có phần khắc nghiệt, nhưng lại phản ánh một sự thật sâu sắc: người con trẻ có trưởng thành nên người hay không, hệ tại người mẹ có sống và dưỡng dục tốt hay không. Bởi lẽ, người mẹ chính là nhân tố tạo nên bầu không khí gia đình, người có thể chăm sóc và đáp ứng những nhu cầu cá nhân bằng sự yêu thương, dịu dàng và lòng khoan dung. Cũng vậy, trong đời sống đạo, con cái có siêng năng, đạo đức hay lười biếng, trễ nải cũng một phần lớn do người mẹ. Một người bố không đạo đức, không thánh thiện không đáng lo ngại cho bằng một người mẹ lười biếng và thiếu dịu dàng trong việc giáo dục đức tin.
Điều này dễ hiểu bởi người mẹ đã mang nặng đẻ đau, nuôi dưỡng và cho con cái sống bằng sự sống của chính mình. Những lời ru, câu hát của mẹ từ lúc bào thai, chào đời và thời măng sữa là kênh chuyển tải những thông điệp yêu thương cho con trẻ, chuyển tải sự sống tâm linh và tâm tình người mẹ cho người con. Người mẹ lo cho con cái bữa ăn, áo mặc và mọi thứ khác, sự gần gũi đó ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành tính cách của con trẻ. Người mẹ có sự gần gũi, cũng như cách thể hiện tình cảm với con cái cách dễ dàng, chuyển tải đến người con bằng ngôn ngữ của trái tim, của mối dây đồng cảm. Đặc biệt nơi người mẹ có sự nhạy cảm, tinh tế điều thường không gặp thấy nơi người bố. Chính những đặc trưng về tính cách và đời sống như vậy nên ảnh hưởng của người mẹ lên việc phát triển của con cái là rất lớn.
Do vậy, Phúc âm hóa đời sống gia đình mời gọi người mẹ cộng tác vào việc giáo dục con cái qua đời sống chứng tá Tin Mừng, qua các nhân đức mà trước hết là đức tin, đức ái, tinh thần thanh thản và thánh thiện. Mỗi thời đại có sự chuyển biến và thay đổi về phương thức giáo dục con cái, nhưng ở đó vẫn có những giá trị không thể thay thế đó là tinh thần Tin Mừng, là Phúc âm hóa con người. Điều đó có nghĩa là không chỉ giáo dục về kiến thức, kỹ năng, mà còn phải thấm nhuần những giá trị của Chúa Giêsu, để con cái biết yêu thương, tha thứ, sống công bằng và phụng sự.
Ước mong, mỗi gia đình luôn là Hội Thánh tại gia, là nơi của sự hiệp thông, yêu thương, cầu nguyện và loan báo tin mừng. Nơi đó, con cái được lớn lên không chỉ trong sự chăm sóc về thể lý, mà còn được nuôi dưỡng về tâm linh, được học hỏi những giá trị vĩnh cửu. Nơi đó, cha mẹ, đặc biệt là những người mẹ, trở thành những người thầy, người cô đầu tiên và quan trọng nhất, bằng chính đời sống gương mẫu của mình.
Cầu chúc các mẹ, các bà trong giới Hiền Mẫu Giáo họ và Giáo xứ mãi là tấm gương sáng cho con cháu noi theo. Nguyện xin Thánh Anna luôn chuyển cầu cho quý Hiền mẫu, để mỗi người luôn được tràn đầy ơn Chúa, đủ sức mạnh và khôn ngoan để chu toàn sứ mệnh cao cả của mình trong việc xây dựng những gia đình thánh thiện, trở thành những tế bào sống động của Giáo Hội và là ánh sáng cho thế giới này.
Lm. Anmai, CSsR
THÁNH GIOAKIM VÀ THÁNH ANNA – HÀNH TRÌNH NÊN THÁNH QUA NIỀM TIN, ĐỢI CHỜ VÀ TÌNH YÊU CHO ĐI
Hành trình nên Thánh là đích điểm mà mỗi người Kitô hữu hướng đến. Mỗi chúng ta được mời gọi sống cuộc đời mình sao cho xứng đáng với ơn gọi làm con cái Thiên Chúa, và cuối cùng đạt đến sự hiệp thông trọn vẹn với Ngài trong Nước Trời. Điều đặc biệt là, con đường nên Thánh của mỗi người lại rất khác nhau. Có người khởi đi từ những nẻo đường trần thế đầy gian nan, những biến cố dữ dội lay chuyển tâm hồn. Có người lại khởi đi từ căn nhà nội tâm, từ những suy tư thẳm sâu, từ đó khám phá Thiên Chúa hiện diện và yêu mến Người.
Điểm xuất phát của mỗi người cũng khác nhau, với những hoàn cảnh riêng biệt, những tính cách và hành trình độc đáo. Thế nhưng, tất cả đều gặp nhau ở một điểm chung cốt lõi: đó là khám phá ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người. Và một khi đã cảm nhận được tình yêu này một cách sâu sắc, con người không thể không đáp trả. Tình yêu tự nó đòi hỏi sự đáp trả, một sự cho đi, một sự biến đổi.
Hôm nay, chúng ta cùng mừng kính Thánh Gioakim và Thánh Anna, song thân của Đức Trinh Nữ Maria. Các ngài là những nhân vật mà Kinh Thánh không trực tiếp kể lại nhiều chi tiết về cuộc đời. Tuy nhiên, qua truyền thống và những ghi chép cổ xưa (như Ngụy Kinh của Thánh Giacôbê), chúng ta được biết các ngài đã khám phá ra được tình yêu của Chúa bằng một thái độ sống đặc biệt: đó là sự “đợi chờ” trong niềm tin yêu và phó thác. Cuộc đời các ngài, dù ít được biết đến, lại là một tấm gương sáng ngời về hành trình nên thánh qua sự kiên trì, lòng tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa quan phòng.
Trong cuốn Ngụy Kinh của Thánh Giacôbê đã viết về Thánh Anna: “Bà đã phải chờ đợi rất lâu mới có được đứa con. Đây là một thử thách lớn cho bà và chồng bà là Gioakim. Cuối cùng thì một thiên thần đã báo tin cho bà về việc ra đời của một bé gái gọi là Maria. Hai vợ chồng đã dâng con trẻ trong Đền Thờ cho Chúa”.
Câu chuyện này, dù không nằm trong Kinh Thánh chính thức, nhưng đã ăn sâu vào truyền thống và niềm tin của Giáo hội, phản ánh một sự thật thiêng liêng về cuộc đời của các ngài:
Thử thách của sự vô sinh và ô nhục xã hội: Đối với xã hội Do Thái thời bấy giờ, không có con, đặc biệt là con trai, trong bậc sống gia đình là một nỗi ô nhục lớn lao, bị coi là dấu hiệu của sự không được Thiên Chúa chúc phúc. Với thánh Gioakim và Anna, các ngài đã phải chờ đợi mãi, cho đến tuổi già nua, mới đón nhận được niềm vui có con. Đó là một thử thách nặng nề, không chỉ về mặt cá nhân (nỗi khao khát có con) mà còn về mặt xã hội (sự kỳ thị, phán xét của cộng đồng).
Trung kiên trong thử thách: Trải qua mọi thăng trầm của cuộc đời, qua sự thử thách kéo dài của sự chờ đợi tưởng chừng vô vọng, nhưng các ngài vẫn trung kiên trong niềm tin vào Thiên Chúa. Các ngài không oán trách, không bỏ cuộc, mà vẫn tiếp tục cầu nguyện và tin tưởng vào sự quan phòng của Ngài.
Nhận ra sự hiện diện, tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa: Hơn nữa, các ngài luôn nhận ra sự hiện diện, tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa trong mọi biến cố của cuộc đời. Chính sự đợi chờ trong niềm tin yêu đã giúp các ngài nhìn thấy bàn tay Chúa ngay cả trong bóng tối của sự vô sinh và sự dè bỉu của xã hội. Các ngài đã không để những khó khăn ấy làm mất đi niềm tin, mà biến chúng thành cơ hội để phó thác trọn vẹn hơn vào Chúa.
Hoa trái của sự đợi chờ và tín thác: Và kết quả của sự kiên trì, tín thác ấy thật vĩ đại: một Maria đã sinh ra đời – người sẽ trở thành Mẹ Thiên Chúa, mang niềm vui, mang Đấng Cứu Độ đến cho toàn thể nhân loại. Maria là hoa trái của tình yêu, của sự kiên nhẫn, và của niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa của Gioakim và Anna. Điều này khẳng định rằng, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi những ai kiên trì đợi chờ Ngài trong đức tin.
Để khám phá ra tình yêu của Chúa, mỗi người phải lên đường trải nghiệm, phải tìm ra một cách thế cho riêng mình. Nẻo đường đó vạn dặm, chẳng ai giống ai, mỗi người mỗi cảm nghiệm khác nhau. Có người thưởng thức từng giây phút cuộc sống trong ân sủng, có người lại kéo lê cả cuộc đời trong sự nặng nề của lo toan và tội lỗi.
Thánh Gioakim và Anna đã khám phá ra tình yêu của Chúa bằng một dấu chân thật đẹp, thật đơn giản. Đó là luôn “chờ đợi” Chúa trong tình yêu và các ngài biết chắc chắn Chúa sẽ trả lời. “Chờ đợi” ở đây không phải là thụ động, mà là một sự chờ đợi đầy hoạt động của đức tin: đó là cầu nguyện liên lỉ, là sống đúng giới luật, là nuôi dưỡng niềm hy vọng không lay chuyển. Các ngài tin tưởng rằng Thiên Chúa là Đấng trung tín, Ngài sẽ không bỏ rơi lời cầu xin của con cái Ngài.
Nhìn vào mẫu gương sống của các ngài, chúng ta cũng hãy tập cho mình một sự chờ đợi Chúa trong tin tưởng và phó thác, cho dẫu có những lúc chúng ta đang ở trong bóng tối.
Chờ đợi trong bệnh tật: Khi đối diện với bệnh tật, liệu chúng ta có kiên nhẫn chờ đợi sự chữa lành của Chúa, dù có thể không phải theo cách chúng ta mong muốn, hay chúng ta vội vàng nản lòng?
Chờ đợi trong thất bại: Khi gặp thất bại trong công việc, trong cuộc sống, liệu chúng ta có tin rằng Chúa vẫn có kế hoạch tốt đẹp cho chúng ta, hay chúng ta rơi vào tuyệt vọng?
Chờ đợi trong cô đơn: Khi cảm thấy cô đơn, bị bỏ rơi, liệu chúng ta có tin rằng Chúa vẫn ở bên, hay chúng ta tìm kiếm sự an ủi nơi những điều phù phiếm?
Chính trong sự đợi chờ, trong bóng tối của những thử thách, niềm tin của chúng ta được tôi luyện, được thử thách và trở nên mạnh mẽ hơn. Và đó cũng là lúc chúng ta cảm nghiệm sâu sắc nhất tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Bởi vì, sự chờ đợi là một hành vi của đức tin, một sự phó thác vào thời điểm của Thiên Chúa, chứ không phải thời điểm của chúng ta.
Mặc dù Kinh Thánh không nói nhiều về thánh Gioakim và Anna, nhưng qua đời sống rạng ngời của Đức Maria, chúng ta đã diễn tả được khuôn mặt của các ngài. Bởi lẽ, “Xem quả thì biết cây, cây tốt không thể sinh trái sâu”. Đức Maria, Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Thiên Chúa, chắc chắn phải xuất thân từ một gia đình thánh thiện, nơi Ngài được nuôi dưỡng trong tình yêu và đức tin vững vàng.
Thánh Gioakim và Anna phải là bậc cha mẹ gương mẫu về đời sống đức tin và đời sống gia đình. Các ngài đã:
Dạy con trong cầu nguyện: Các ngài đã gieo vào lòng Đức Maria hạt giống đức tin và tình yêu Thiên Chúa từ khi còn bé thơ, dạy Ngài biết cầu nguyện, biết sống thân mật với Chúa.
Dùng tình yêu để đi vào từng góc nhỏ của cuộc sống: Tình yêu của các ngài không chỉ là những lời nói, mà là sự hiện diện, sự quan tâm, sự chăm sóc trong từng chi tiết nhỏ của cuộc sống gia đình, tạo nên một môi trường yêu thương và bình an cho Đức Maria lớn lên.
Luôn khiêm tốn trong cách cư xử: Sự khiêm tốn của các ngài, đặc biệt khi đối diện với nỗi ô nhục của sự vô sinh, đã là một bài học sống động cho Đức Maria về việc phó thác vào ý Chúa và không tìm kiếm vinh quang trần thế.
Biết lắng nghe bằng trái tim bao dung: Chắc hẳn các ngài đã lắng nghe nhau, lắng nghe Lời Chúa, và lắng nghe những nhu cầu của con cái mình bằng một trái tim rộng mở, đầy tình yêu thương.
Dù các ngài đã đi vào lịch sử cả mấy ngàn năm, nhưng các ngài vẫn là chứng nhân cho các bậc làm cha mẹ ngày nay, biết dùng tình yêu và trái tim để nuôi dưỡng, giáo dục những mầm non nhỏ trong hành trình làm người và nên Thánh. Trong một thế giới đầy dẫy những thách thức, những cám dỗ, và những giá trị lệch lạc, vai trò của cha mẹ là vô cùng quan trọng trong việc truyền thụ đức tin và giáo dục con cái sống theo ý Chúa. Gương sáng của Thánh Gioakim và Anna nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của việc xây dựng một gia đình thánh thiện, nơi Thiên Chúa là trung tâm, và tình yêu thương là nền tảng.
Là con người, các ngài cũng phải trải qua mọi biến cố trong cuộc đời. Đối với xã hội thời bấy giờ, không có con trong bậc sống gia đình là một nỗi ô nhục. Với thánh Gioakim và Anna, các ngài đã phải chờ đợi mãi cho đến tuổi già nua để đón nhận được niềm vui lớn lao là Đức Maria. Trải qua mọi thăng trầm nhưng các Ngài đã chấp nhận tất cả, phó dâng cho Thiên Chúa và làm theo lời Người chỉ dẫn. Phải chăng các Ngài đã biến những biến cố thành những hy sinh, niềm vui, niềm hạnh phúc để vượt qua tất cả? Đây chính là bí quyết của hành trình nên Thánh. Không phải là không có đau khổ, mà là biến đau khổ thành của lễ, biến gánh nặng thành cơ hội để sống đức tin và cảm nghiệm tình yêu Chúa.
Tình yêu của các ngài là tình yêu cho đi, tình yêu ban phát nhưng không. Các ngài đã cho đi sự chờ đợi, cho đi niềm tin, cho đi sự vâng phục, và dâng hiến cả đứa con duy nhất của mình cho Chúa. Tình yêu đó không tìm kiếm lợi ích cho riêng mình, mà chỉ muốn chúng ta cũng phải diễn tả tình yêu đó cho người khác.
Các ngài vẫn đi vào đời sống và chăm lo cho chúng ta một cách liên lỉ, luôn rộng mở vòng tay để đón nhận, lắng nghe những tâm sự, lời cầu xin và chuyển cầu cùng Chúa cho chúng ta. Đây là vai trò chuyển cầu của các thánh trong Hội Thánh hiệp thông. Các ngài là những người bạn của Thiên Chúa, và các ngài vẫn tiếp tục giúp đỡ chúng ta từ Thiên Đàng.
Thế nhưng, mỗi người chúng ta đã đáp trả thế nào? Chúng ta có đang sống tinh thần của sự chờ đợi trong đức tin, của sự phó thác, của tình yêu cho đi, hay chúng ta vẫn còn bám víu vào những lo toan trần thế và sự ích kỷ?
Ước mong rằng, mỗi người chúng ta sẽ trở thành một khí cụ, một cộng sự đắc lực của các ngài để mang niềm vui, bình an và tình yêu của Chúa đến cho mọi người.
Hãy là người biết đợi chờ Chúa: Trong những lúc khó khăn, thử thách, hãy tin tưởng vào sự quan phòng của Ngài, và kiên nhẫn đợi chờ Ngài hành động.
Hãy là người có trái tim yêu thương cho đi: Không chỉ cho đi vật chất, mà còn cho đi thời gian, sự lắng nghe, sự cảm thông, và lời cầu nguyện.
Hãy là chứng nhân cho tình yêu Thiên Chúa: Bằng chính đời sống của mình, hãy làm chứng cho thế giới biết rằng Thiên Chúa là Đấng yêu thương, và Ngài luôn hiện diện trong mọi biến cố của cuộc đời.
Hãy là người biết sống thánh ý Chúa: Noi gương Thánh Gioakim và Anna, hãy để Lời Chúa và Thánh Ý Ngài hướng dẫn mọi hành động, mọi quyết định của chúng ta.
Gương sáng của Thánh Gioakim và Thánh Anna là một lời mời gọi sâu sắc để chúng ta nhìn lại hành trình nên Thánh của mình. Các ngài dạy chúng ta rằng sự thánh thiện không chỉ dành cho những người làm những việc phi thường hay có những phép lạ hiển nhiên. Nó bắt nguồn từ những điều đơn giản nhất: một trái tim biết yêu mến Chúa, một niềm tin kiên cường trong sự đợi chờ, một sự phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa quan phòng, và một tình yêu cho đi không ngừng nghỉ.
Xin cho mỗi người chúng ta, nhờ lời chuyển cầu của Thánh Gioakim và Thánh Anna, biết sống tinh thần này mỗi ngày. Để chúng ta có thể khám phá ra tình yêu của Chúa, sống trong sự bình an và niềm hy vọng của Ngài, và cuối cùng, được cùng các ngài hưởng vinh quang Nước Trời. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
THÁNH GIOAKIM VÀ THÁNH ANNA: TẤM GƯƠNG GIA ĐÌNH THÁNH THIỆN VÀ SỨC MẠNH DI SẢN ĐỨC TIN
Hôm nay, chúng ta hân hoan mừng kính Thánh Gioakim và Thánh Anna, song thân của Đức Trinh Nữ Maria và cũng là ông bà ngoại của Chúa Giêsu Kitô. Khi nhắc đến các Ngài, chúng ta thường nghĩ ngay đến một hình ảnh gia đình lý tưởng, một cặp vợ chồng hoàn hảo bởi vì cả hai đã nên thánh. Và không chỉ dừng lại ở đó, đây còn là một gia đình hoàn hảo theo nghĩa rộng hơn: không chỉ cha mẹ nên thánh, mà người con các Ngài sinh ra cũng nên thánh và được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Đấng Cứu Thế, đó chính là Đức Maria, Mẹ của chúng ta.
Mặc dù sách vở không nói nhiều về cuộc đời và chi tiết nhân đức của Thánh Gioakim và Thánh Anna, nhưng chúng ta hoàn toàn có thể suy đoán về sự thánh thiện phi thường của các Ngài dựa trên một nguyên tắc nền tảng mà Thánh Tôma Aquinô đã chỉ ra: “Một vật càng tiến gần gốc của nó, thì càng tham gia và chịu ảnh hưởng bởi gốc đó.” Thật vậy, ai được gần Chúa hơn Đức Maria, là Mẹ Thiên Chúa? Và ai được gần Mẹ Chúa hơn Thánh Gioakim và Thánh Anna, là song thân của Mẹ? Điều này cho thấy rằng, sự thánh thiện của Đức Maria chắc chắn phải có nguồn gốc sâu xa từ nền tảng đức tin và đời sống thánh thiện mà các Ngài đã gieo trồng và nuôi dưỡng.
Người Việt Nam chúng ta có câu tục ngữ rất ý nghĩa: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.” Áp dụng nguyên tắc này vào đời sống thiêng liêng, chúng ta có thể hình dung được mức độ ảnh hưởng của môi trường sống, đặc biệt là từ cha mẹ. Dựa vào nguyên tắc ấy, Thánh Gioan Đamát đã ca ngợi Thánh Gioakim và Thánh Anna bằng những lời vô cùng đẹp đẽ và sâu sắc:
“Lạy Thánh Gioakim và Thánh Anna là đôi bạn diễm phúc và rất trong sạch, thiên hạ hiểu biết các Ngài nhờ chính hoa quả của lòng các Ngài, như có nơi Chúa nói: cứ xem quả thì biết cây. Các Ngài đã có nếp sống đẹp lòng Thiên Chúa và xứng đáng với Đấng sẽ sinh ra bởi lòng các Ngài. Nhờ cách ăn ở thánh thiện trong sạch, các Ngài đã sinh ra được hạt ngọc quý về đức trinh khiết; Ngài là Đấng đồng trinh trước khi sinh và sau khi sinh con, là Đấng duy nhất luôn luôn trinh khiết trong tâm hồn, trong tâm trí và ngay cả trong thân thể.”
Lời ca ngợi này không chỉ tôn vinh sự thánh thiện cá nhân của Thánh Gioakim và Thánh Anna, mà còn nhấn mạnh mối liên hệ mật thiết giữa đời sống đạo đức của cha mẹ và phẩm chất của con cái. Đức Maria, “hạt ngọc quý về đức trinh khiết,” là bằng chứng sống động nhất cho nếp sống đẹp lòng Thiên Chúa của song thân Ngài. Sự thanh khiết vẹn toàn của Mẹ Maria, ngay cả trước và sau khi sinh Con Thiên Chúa, không phải là một điều ngẫu nhiên, mà là hoa trái của một môi trường gia đình được vun trồng bằng sự thánh thiện, trong sạch, và lòng yêu mến Thiên Chúa.
Trong cuộc sống, có được cha mẹ mẫu mực, đạo đức là một niềm vinh dự và tự hào vô cùng lớn lao cho con cái. Chắc chắn, Đức Maria rất tự hào và biết ơn vì có một người cha, người mẹ như Thánh Gioakim và Thánh Anna. Có thể nói, chính nhờ nếp sống thánh thiện và sự giáo dục tuyệt vời của hai Đấng mà Đức Maria mới được diễm phúc và xứng đáng làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
Cha ông ta thường nói: “Cha mẹ hiền lành để đức cho con.” Câu nói này không chỉ đúng trong đời thường mà còn mang ý nghĩa sâu sắc trong đời sống đức tin. Bài đọc thứ nhất trong Sách Huấn Ca hôm nay đã khẳng định điều đó một cách mạnh mẽ:
“Những người đạo hạnh, công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước; nhờ các ngài, con cháu cũng một mực trung thành. Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên mả đẹp và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế. Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen” (Hc 44, 10-15).
Đây là một lời hứa, một sự đảm bảo thiêng liêng cho những ai sống đạo hạnh. Công đức của cha mẹ không chỉ mang lại phúc lành cho bản thân mà còn trở thành gia tài quý báu cho con cháu, một di sản đức tin vượt thời gian. Sự trung thành với giao ước của cha mẹ sẽ được con cháu noi theo. Vinh quang của các ngài sẽ không phai mờ, mà sẽ được muôn đời ca tụng.
Nhìn vào gương sáng của Thánh Gioakim và Thánh Anna, và lắng nghe lời Kinh Thánh, có lẽ mỗi bậc làm cha làm mẹ trong chúng ta đều tự hỏi: con cái của chúng ta cũng đang trông mong có được những người cha, người mẹ mẫu mực như thế. Vậy, để trở thành một người cha, người mẹ Công giáo mẫu mực, chúng ta cần phải làm gì?
Trước hết và trên hết, để trở thành cha mẹ mẫu mực, các bậc cha mẹ cần phải chu toàn bổn phận vợ chồng. Điều này bao gồm việc yêu thương chung thủy với nhau, sẵn sàng đón nhận con cái mà Chúa ban với lòng biết ơn và quảng đại, và cùng nhau giúp nhau nên thánh. Bổn phận thiêng liêng này đã được chính hai người thề hứa trước mặt linh mục và cộng đoàn trong ngày lãnh nhận Bí tích Hôn Phối: “Anh (em) là…nhận em (anh) làm vợ (chồng) của anh (em) và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với em (anh), khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khỏe cũng như lúc đau yếu, để yêu thương và tôn trọng em (anh) mọi ngày suốt đời anh (em).”
Hôn nhân Kitô giáo không chỉ là một sự kết hợp giữa hai người, mà còn là một con đường dẫn đến sự thánh thiện. Khi vợ chồng yêu thương, tôn trọng, và hỗ trợ nhau trên hành trình đức tin, họ tạo ra một môi trường đầy ắp tình yêu và ân sủng, là nền tảng vững chắc cho việc giáo dục con cái. Một gia đình nơi cha mẹ sống tình nghĩa, chung thủy, và cùng nhau hướng về Chúa sẽ là một pháo đài vững chắc chống lại mọi cám dỗ và thử thách của cuộc sống.
Thứ đến, các bậc cha mẹ cần phải chu toàn bổn phận làm cha làm mẹ, đặc biệt là bổn phận giáo dục con cái. Công đồng Vatican II đã nhấn mạnh tầm quan trọng này khi mời gọi: “Cùng với lúc lãnh nhận sứ mệnh cộng tác tạo dựng với Thiên Chúa, cha mẹ đương nhiên lãnh nhận trách nhiệm giáo dục con cái, nhất là về phương diện tôn giáo” (x. GS 48).
Trách nhiệm giáo dục con cái không chỉ đơn thuần là cung cấp vật chất hay kiến thức học đường. Đó là một trách nhiệm toàn diện, nhằm giáo dục con cái nên người và nên thánh. Cha mẹ phải giáo dục con cái theo từng giai đoạn phát triển và về mọi phương diện: đức dục (giáo dục đạo đức, nhân cách), trí dục (giáo dục tri thức, khả năng tư duy), và thể dục (giáo dục thể chất, sức khỏe). Nhờ đó, khi lớn lên, con cái mới có thể trở thành những con người hoàn thiện, có ích cho Giáo hội và xã hội.
Tuy nhiên, để việc giáo dục con cái có hiệu quả thực sự, cha mẹ luôn phải làm gương sáng cho con cái. Lời nói suông sẽ không có sức mạnh bằng hành động cụ thể.
Để dạy con cái sống đức tin, cha mẹ phải siêng năng cầu nguyện, tham dự Thánh Lễ, và lãnh nhận các Bí tích.
Để dạy con cái sống yêu thương, cha mẹ phải không được ghen ghét ai, mà phải biết tha thứ và bao dung.
Để dạy con cái sống hiếu thảo, cha mẹ phải không được đối xử tệ với ông bà, mà phải biết kính trọng và chăm sóc.
Để dạy con cái sống thật thà, cha mẹ phải không được lừa dối ai, mà phải luôn nói sự thật.
Để dạy con cái làm việc bác ái, cha mẹ phải biết chia sẻ, giúp đỡ những người nghèo khổ, ốm đau, bệnh tật.
Nói cách khác, cha mẹ luôn phải làm gương trước khi nói. Trẻ em học hỏi nhiều nhất từ những gì chúng thấy và cảm nhận từ hành vi của cha mẹ. Lời nói có thể bay đi, nhưng gương sáng thì tồn tại mãi trong tâm hồn con trẻ.
Nhìn vào Đức Maria, chúng ta có thể đoán chắc rằng Thánh Gioakim và Thánh Anna đã không chỉ dạy bảo Mẹ bằng lời nói mà còn bằng chính gương sáng của đời sống các Ngài. Chính nhờ gương sáng đạo hạnh của các Ngài mà nơi Đức Maria mới có được các nhân đức cao cả và một đời sống đức tin mạnh mẽ đến như vậy.
Mẹ Maria đã gắn bó với Chúa một cách mật thiết, và điều đó được thể hiện rõ ràng qua đời sống cầu nguyện của Mẹ:
Mới ba tuổi, Mẹ đã dâng mình cho Chúa trong đền thờ, một hành động biểu trưng cho sự tận hiến trọn vẹn từ thuở ấu thơ.
Khi Sứ thần truyền tin, chính là lúc Mẹ đang quỳ cầu nguyện, cho thấy Mẹ luôn sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa.
Khi bà Êlizabét cất lời ca tụng Mẹ, Mẹ đã hát bài Magnificat, một bài ca xuất phát từ một tâm hồn tràn đầy ơn sủng và gắn bó sâu sắc với Lời Chúa.
Tất cả những điều đó chứng minh cho chúng ta biết, tâm hồn Mẹ Maria luôn gắn bó với Lời Chúa và với Chúa qua đời sống cầu nguyện không ngừng, một đời sống được cha mẹ Ngài vun đắp từ những ngày đầu.
Nhìn vào các gia đình ngày nay, chúng ta thấy có nhiều gia đình Kitô hữu đang cố gắng noi gương Thánh Gia, biết chu toàn bổn phận vợ chồng, bổn phận làm cha mẹ, và đặc biệt là bổn phận giáo dục con cái cách đầy đủ và ý nghĩa. Nhờ vậy, không những chính họ nên thánh mà con cái của họ cũng nên người và nên thánh. Một minh chứng hùng hồn cho điều này là vào ngày 18 tháng 10 năm 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã phong hiển thánh cho ông Louis Martin và bà Zélie Guérin, song thân của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Giáo hội, một cặp vợ chồng được phong hiển thánh cùng lúc, một bằng chứng rõ ràng về sức mạnh của một gia đình thánh thiện. Chắc chắn sẽ còn nhiều gia đình giống như thế, và ước mong mỗi gia đình chúng ta cũng được như vậy, trở thành những hạt giống thánh thiện gieo mầm cho tương lai của Giáo hội và xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những gia đình mẫu mực, vẫn không thiếu những người chồng, người vợ sống vô trách nhiệm, không quan tâm đến nhau, không quan tâm đến bổn phận giáo dục con cái, và tệ hơn nữa là không làm gương sáng cho con cái. Thậm chí, lời nói và hành động tiêu cực của họ lại trở thành cớ cho con cái vấp phạm, sa ngã. Vì thế, một số giới trẻ ngày nay vẫn dễ dàng sa vào các tệ nạn xã hội như cờ bạc, xì ke, ma túy, và các trào lưu xấu đang lùng bắt và hủy hoại cuộc đời các em. Đó cũng là hậu quả đáng buồn của một thói quen xấu, của một nền giáo dục căn bản thiếu định hướng, thiếu đi sự vun đắp về mặt đạo đức và tâm linh từ gia đình.
Mừng kính Thánh Gioakim và Thánh Anna hôm nay, chúng ta không chỉ chiêm ngắm gương sáng của các Ngài như những nhân vật lịch sử xa xưa, mà còn là lời mời gọi mỗi người chúng ta, đặc biệt là các bậc làm cha làm mẹ, hãy nhìn lại đời sống của mình.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con cầu xin cho các bậc cha mẹ trong gia đình chúng con và trên toàn thế giới luôn biết nhìn lên mẫu gương của Thánh Gioakim và Thánh Anna để biết sửa đổi những sai sót của mình, để luôn sống đúng với lời hứa hôn phối và chu toàn bổn phận làm cha mẹ. Đồng thời, xin các Thánh Gioakim và Anna bầu cử trước tòa Chúa, để các bậc làm cha làm mẹ luôn biết chu toàn bổn phận làm cha, làm chồng, làm vợ, làm mẹ với tất cả tình yêu thương và trách nhiệm.
Nhờ lời chuyển cầu của hai Đấng Thánh, xin Chúa ban cho mọi thành viên trong các gia đình chúng ta đều được ơn biến đổi, biết sống yêu thương, vâng phục, và không ngừng vun đắp đức tin. Nhờ đó, mọi thành viên trong các gia đình chúng ta đều nên người và nên thánh, làm vinh danh Chúa và góp phần xây dựng một xã hội tràn đầy tình yêu thương, bình an và công lý. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
THÁNH GIOAKIM VÀ ANNA: NHỮNG NGƯỜI GIEO HẠT MẦU NHIỆM VÀ BÀI HỌC VỀ TRÁI TIM KHIÊM CUNG
Trong Tin Mừng, chúng ta không thấy tên của cha mẹ Đức Maria. Điều này có vẻ lạ lùng, khi mà mọi chi tiết về cuộc đời Chúa Giêsu và các nhân vật xung quanh Người đều được ghi chép tỉ mỉ. Tuy nhiên, truyền thống thánh thiện của Giáo Hội đã bảo tồn và cho chúng ta biết tên của cha mẹ Đức Maria là Gioakim và Anna.
Thánh Gioakim không được sùng kính rộng rãi như Thánh Anna, người mà lòng sùng kính rất phổ biến trên khắp thế giới, đặc biệt là ở Mỹ Châu ngay từ thời kỳ di dân, và có lịch sử lâu đời ở Bretagne với số lượng nhà thờ kể không xiết mang tên Mẹ. Lòng sùng kính này không phải vô cớ mà có. Với niềm tin mạnh mẽ, đơn sơ, đẹp đẽ của chúng ta, chúng ta tin rằng Thánh Anna là mẹ Đức Maria. Niềm tin đó càng dễ dàng, mạnh mẽ đón nhận vì Đức Maria, dù là Mẹ Thiên Chúa, lại được sinh ra bởi một người cha và một bà mẹ như bao nhiêu xác phàm khác, qua một tiến trình tự nhiên, với những thử thách và hy vọng rất con người.
Điều này làm cho mối liên hệ của chúng ta với Đức Maria, và xa hơn là với Chúa Giêsu, trở nên gần gũi và nhân bản hơn. Gia đình Thánh Gioakim và Anna là một minh chứng sống động cho việc Thiên Chúa chọn những con người bình dị để thực hiện những kế hoạch vĩ đại nhất của Người.
Dù cha mẹ Ngài có tên này hay tên khác, điều đó không cần bàn đến chi tiết. Điều cốt yếu là chúng ta tôn kính các Ngài chỉ vì các Ngài đã ban cho chúng ta Đức Trinh Nữ Maria. Đó là lần độc nhất trong lịch sử các thánh mà chúng ta tôn kính các Ngài không phải vì các Ngài đã làm phép lạ, không phải vì các Ngài là những nhà thần học lỗi lạc hay những vị tử đạo oanh liệt. Công phúc độc nhất của các Ngài mà không thánh nào khác có được là các Ngài đã làm cha làm mẹ Đức Maria, Đấng cưu mang Ngôi Lời nhập thể.
Thật là một mầu nhiệm đức tin đầy sâu sắc! Thánh Anna và Gioakim không hề hồ nghi gì về việc con các Ngài lớn lên sẽ là tôi tớ khiêm nhường của Thiên Chúa, là Mẹ Thiên Chúa! Các Ngài không thể đoán biết danh tiếng các Ngài sẽ vượt mọi biên giới thời gian, nhưng danh đó như hoa nở, vì các Ngài đã gieo hạt hoa hồng mầu nhiệm (Đức Maria, Mẹ của Tình Yêu), gieo hạt hoa huệ tinh tuyền (Đức Maria, Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội). Chính nhờ công ơn sinh thành và dưỡng dục Đức Maria, trong sự khiêm tốn và vâng phục ý Chúa, mà tên các Ngài được vinh danh muôn đời. Lời chúc tụng của Giáo Hội vang lên: “Lạy Chúa, chúc tụng Ngài đã vinh thăng Đức Trinh Nữ Maria”. Sự vinh thăng của Đức Maria cũng đồng nghĩa với sự vinh hiển của cha mẹ Ngài.
Tâm tình khiêm cung của Thánh Gioakim và Anna cũng là một bài học tuyệt vời cho chúng ta. Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Năng đã tóm kết sứ điệp này một cách cô đọng: Thiên Chúa mạc khải chính Ngài cho chúng ta. Ngài khai mở và đổ tràn sự sống của Người cho tâm hồn khiêm cung và biết lắng nghe. Ai khát khao chân thành, người ấy sẽ nhận được mầu nhiệm Nước Trời.
Lời cầu nguyện mà chúng ta có thể dâng lên Chúa Giêsu hôm nay là: “Lạy Chúa Giêsu, bao nhiêu vị tiên tri và người công chính trong Cựu Ước khao khát được thấy Chúa và nghe Lời Chúa mà không được. Phần con, con được diễm phúc nghe Lời Chúa và đón nhận mầu nhiệm Nước Trời là chính Chúa. Con cảm tạ Chúa.”
Đây là một sự thật mà chúng ta cần chiêm nghiệm sâu sắc. Suốt hàng ngàn năm lịch sử, biết bao tổ phụ, ngôn sứ, vua chúa, và những người công chính đã khao khát được thấy Đấng Mêssia, được nghe Lời trực tiếp từ miệng Người, được hiểu các mầu nhiệm về Nước Trời. Họ đã nhìn thấy qua bóng hình, qua lời tiên tri, nhưng không được thấy tận mắt và nghe tận tai như chúng ta ngày nay.
Ghi nhớ: “Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy” (Mt 13,17). Chúng ta đang sống trong thời đại của sự mặc khải trọn vẹn, thời đại của ân sủng.
Nhưng lạy Chúa, Chúa cho con thấy rằng chỉ những tâm hồn khiêm cung, ngay chính và khao khát Chúa, mới thực sự có được những điều thiện hảo đó. Vâng, con chỉ có thể được đón nhận Nước Trời nếu lòng con luôn chân thành và thiết tha quy hướng về Chúa. Điều này có nghĩa là chúng ta phải không ngừng tìm kiếm Chúa, không ngừng khao khát Người, đặt Người làm ưu tiên số một trong cuộc đời mình. Và nếu con như người lính canh chờ mong bình minh đến từng giờ, từng giây phút trong đời, với tất cả sự tỉnh thức và lòng mong đợi, thì sự sống và tình yêu Chúa chắc chắn sẽ tràn ngập cuộc đời con. Ôi lạy Chúa, con thầm nhủ và mong ước được như thế.
Chúa Giêsu đã dạy một quy luật rất quan trọng của Nước Trời, một quy luật dường như khắc nghiệt nhưng lại rất công bằng: “Ai đã có, thì sẽ cho họ được dư dật, còn kẻ không có thì cái họ có cũng bị lấy đi” (Mt 13,12). Lời này áp dụng một cách sâu sắc cho đời sống đức tin của chúng ta.
Khi chúng ta loại trừ ra khỏi lòng mình những trăn trở, các thói hư tật xấu và tội lỗi – những “gai góc” hay “đất sỏi đá” trong dụ ngôn Người gieo giống – khi con có thiện chí sẵn sàng đón nhận Chúa, thì ơn Chúa càng dồi dào, dư tràn bao phủ đời con. Đây là vòng xoáy đi lên của ân sủng. Mỗi khi chúng ta mở lòng ra một chút, Chúa sẽ đổ tràn ân sủng gấp bội. Mỗi khi chúng ta thực hành một điều lành nhỏ bé, Chúa sẽ ban thêm sức mạnh để thực hiện những điều lớn lao hơn. Khi chúng ta đón nhận Chúa một cách khiêm tốn, tâm hồn chúng ta sẽ trở thành mảnh đất màu mỡ cho Lời Chúa sinh hoa kết quả dồi dào.
Sự “có” ở đây không phải là những gì thuộc về vật chất hay trí tuệ, mà là sự “có” của một trái tim mở rộng, một linh hồn khao khát, một ý chí sẵn sàng vâng phục. Khi chúng ta có lòng khiêm tốn và thiện chí, chúng ta sẽ được ban thêm sự hiểu biết về mầu nhiệm Nước Trời, được cảm nếm tình yêu Chúa sâu sắc hơn, và được biến đổi ngày càng giống Chúa hơn.
Ngược lại, nếu lời mạc khải của Chúa chỉ là tiếng vang động bên ngoài mà không thấm vào nội tâm, con sẽ tự đánh mất tất cả. Đó là khi con cứng lòng khép kín nội tâm, không muốn nghe, không muốn thấy, không muốn thay đổi. Sự khép kín này thường dẫn đến việc tách rời với anh em, với cộng đoàn và với Giáo Hội. Khi chúng ta tự cô lập mình khỏi nguồn mạch của ân sủng, chúng ta sẽ dần khô héo về mặt thiêng liêng.
Đó cũng là khi con từ chối của ăn linh hồn là nguồn sống Thánh Thể, các bí tích và chính Lời Hằng Sống. Những phương thế ân sủng mà Chúa đã ban cho chúng ta để nuôi dưỡng đời sống đức tin, để kết nối chúng ta với Người, sẽ trở nên vô ích nếu chúng ta không đón nhận chúng cách xứng đáng. Xin đừng để con sa lầy vào tình cảnh đó, tình cảnh của sự mất mát thiêng liêng trầm trọng nhất.
Lời cầu nguyện cuối cùng của chúng ta là một sự cam kết cho con đường mà Chúa muốn chúng ta đi: Xin cho con sống khiêm nhường, bác ái và hiệp nhất với Chúa luôn luôn như lối mở cho con vào Nước Trời.
Khiêm nhường: Là nền tảng của mọi đức hạnh. Khiêm nhường giúp chúng ta nhận ra mình là ai trước mặt Thiên Chúa, nhận ra mọi ơn lành đều đến từ Người. Nó mở rộng lòng chúng ta để đón nhận ân sủng và mặc khải của Chúa.
Bác ái: Là dấu chỉ của người môn đệ Chúa Kitô. Tình yêu thương tha nhân là biểu hiện cụ thể của lòng mến Chúa. Khi chúng ta sống bác ái, chúng ta đang sống ý muốn của Cha trên trời, và như vậy, chúng ta đang xây dựng Nước Chúa ngay tại trần gian.
Hiệp nhất với Chúa: Đây là cùng đích của đời sống Kitô hữu. Sự hiệp nhất này không chỉ là một cảm xúc, mà là một sự kết hợp sống động với Chúa qua Lời Người, qua các bí tích, và qua việc sống theo ý Người.
Khi chúng ta sống ba điều này – khiêm nhường, bác ái, hiệp nhất với Chúa – chúng ta đang mở ra một lối đi thẳng vào Nước Trời. Chúng ta đang trở thành những “kẻ bé mọn” mà Chúa Giêsu muốn mặc khải mầu nhiệm cứu độ.
Hôm nay, trong ngày mừng kính Thánh Gioakim và Anna, cha mẹ Đức Trinh Nữ Maria, chúng ta được mời gọi chiêm ngưỡng sự khiêm tốn và lòng tin của các Ngài, những người đã gieo hạt giống “hoa hồng mầu nhiệm” và “hoa huệ tinh tuyền” cho Giáo Hội. Chúng ta cũng được mời gọi nhìn vào chính mình, để xem chúng ta có đang mở lòng ra cho sự mặc khải của Thiên Chúa không, hay đang để sự kiêu căng, cứng lòng ngăn cản.
Thiên Chúa không ngừng mặc khải chính Ngài cho chúng ta. Ngài không ngừng khai mở và đổ tràn sự sống của Người. Vấn đề không phải là Chúa có muốn ban hay không, mà là chúng ta có sẵn sàng đón nhận hay không.
Hãy chọn con đường của sự khiêm cung, của lòng khao khát chân thành. Hãy chọn con đường của sự lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành. Bởi vì, đó là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến với mầu nhiệm Nước Trời, đến với sự sống và tình yêu dư dật của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Lạy Chúa,
Con càng xác tín hơn nữa khi nghe Chúa nói: “Ai đã có, thì sẽ cho họ được dư dật, còn kẻ không có thì cái họ có cũng bị lấy đi”. Khi con loại trừ ra khỏi lòng mình những trăn trở, các thói hư tật xấu và tội lỗi, khi con có thiện chí sẵn sàng đón nhận Chúa, thì ơn Chúa càng dồi dào, dư tràn bao phủ đời con. Ngược lại, con sẽ tự đánh mất tất cả nếu lời mạc khải của Chúa chỉ là tiếng vang động bên ngoài. Đó là khi con cứng lòng khép kín nội tâm, tách rời với anh em, với cộng đoàn và với Giáo Hội. Đó cũng là khi con từ chối của ăn linh hồn là nguồn sống Thánh Thể, các bí tích và chính Lời Hằng Sống. Xin đừng để con sa lầy vào tình cảnh đó.
Xin cho con sống khiêm nhường, bác ái và hiệp nhất với Chúa luôn luôn như lối mở cho con vào Nước Trời. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
SỐNG ĐỜI SỐNG CÓ PHÚC NHỜ “THẤY” VÀ “NGHE” CHÚA
Trong bầu khí linh thiêng của ngày lễ kính Thánh Gioakim và Thánh Anna, song thân của Đức Trinh Nữ Maria, chúng ta cùng nhau lắng đọng tâm hồn để suy niệm về ý nghĩa sâu xa của Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay. Dù Tin Mừng không trực tiếp nói về hai vị thánh này, nhưng những giáo huấn của Chúa Giêsu trong đoạn Matthêu (Mt 13, 10-17) lại soi sáng cuộc đời các ngài và mời gọi mỗi người chúng ta chiêm nghiệm về một cuộc sống có phúc trong tương quan với Thiên Chúa, Đấng luôn mạc khải chính mình cho nhân loại.
Kitô giáo là đạo từ trời xuống. Đây là một chân lý căn bản. Những giáo lý và niềm tin Kitô giáo không phải là sản phẩm của trí tuệ con người, mà do chính Thiên Chúa truyền xuống. Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, chính là mặc khải trọn vẹn nhất về Thiên Chúa cho con người. Qua Ngài, chúng ta được biết Thiên Chúa là ai, Ngài yêu thương chúng ta đến mức nào, và Ngài muốn chúng ta sống ra sao để được hưởng ơn cứu độ.
Trong lời rao giảng của Ngài, Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn để nói về Nước Trời. Nước Trời là một thực tại thiêng liêng, vượt quá khả năng diễn tả bằng ngôn ngữ loài người. Ngay cả khi có cố gắng diễn tả, con người cũng khó lòng hiểu nổi, vì nó vượt khỏi thế giới khả giác này. Như lời thánh Phaolô đã nói, đó là thực tại mà mắt con người chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng người chưa từng cảm nghiệm được. Thực tại ấy không thể thu hẹp trong một vài câu định nghĩa khô khan, mà phải diễn tả bằng dụ ngôn. Bởi lẽ, cách diễn tả bằng dụ ngôn không giới hạn, nhưng tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu sâu xa hơn, mời gọi người nghe suy tư, chiêm nghiệm và đào sâu ý nghĩa.
Dụ ngôn là một thứ ngôn ngữ đặc biệt, nó như một cánh cửa mở ra cho những người trong cuộc, những người sống trong tình thân với nhau. Để thực sự hiểu được dụ ngôn, cần phải có hai đức tính quan trọng: đó là một tâm hồn rộng mở và một ước muốn tìm hiểu chân lý. Dụ ngôn không dành cho những tâm hồn khép kín, kiêu ngạo hay đầy định kiến.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói rõ điều này với các môn đệ: “Về phần các con đã được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không”. Lời này cho thấy một sự phân biệt rõ ràng. Các môn đệ đã được chấp nhận vào cộng đoàn của những kẻ tin vào Chúa Giêsu. Họ đã chọn đi theo Ngài, lắng nghe Ngài, và đặt niềm tin vào lời Ngài. Chính vì thế, các ông có thể hiểu rõ những mầu nhiệm. Họ có một mối tương quan thân mật với Chúa, và mối tương quan đó là chìa khóa để mở ra cánh cửa của sự hiểu biết.
Còn những kẻ ở bên ngoài, đặc biệt là những người kiêu hãnh, khép kín tâm hồn, hay đầy định kiến, như các Luật sĩ và Biệt phái, thì khi nhìn vào các mầu nhiệm, họ chỉ thấy bí ẩn và khó hiểu. Lòng họ đã đóng kín, nên lời Chúa không thể thấm nhập. Chính cách trả lời của Chúa là tiêu chuẩn để biết được ai là người thuộc về Chúa và ai là người ngoài cuộc: “Nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe. Còn các con, mắt các con thật có phúc vì được thấy, tai các con có phúc vì được nghe.” Sự “thấy” và “nghe” ở đây không chỉ là giác quan vật lý, mà là sự thấu hiểu bằng đức tin, bằng một trái tim rộng mở.
Có thể có người thắc mắc về sấm ngôn của tiên tri Isaia mà Chúa Giêsu trích dẫn: “Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai, và nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành”. Tại sao lắng nghe mà không hiểu? Trố mắt nhìn mà chẳng thấy? Phải chăng Thiên Chúa không muốn cho chúng ta hiểu?
Nếu tách lời sấm này ra khỏi mạch văn và không đặt trong toàn bộ Thánh Kinh, chúng ta có thể đặt vấn đề như vậy. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận trong tổng thể, thì không thể cắt nghĩa theo hướng tiêu cực đó. Thiên Chúa luôn yêu thương và muốn cứu thoát con người. Đây là chân lý nền tảng của đức tin Kitô giáo. Từ ngàn xưa, Ngài đã không ngừng bày tỏ tình yêu và lòng thương xót. Chúa Giêsu được sai xuống trần gian chỉ vì mục đích đó. Ngài đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất, để hòa giải con người với Thiên Chúa Cha.
Thế nên, nếu con người không được ơn cứu độ, điều đó không phải vì tại Thiên Chúa, nhưng vì tại con người bưng tai chẳng thèm nghe, bịt mắt không thèm nhìn mà thôi. Lời sấm của Isaia nói đến một thực tế, chứ không phải ý muốn của Thiên Chúa. Thực tế đó là sự cứng lòng của dân, đến nỗi dù họ có tai có mắt mà cũng như điếc như mù. Dù cho họ nghe và xem cái gì cũng vô ích, vì lòng họ đã tự đóng kín. Một số người thời Chúa Giêsu cũng rơi vào tình trạng tương tự.
Chính vì vậy, Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta: “Ai có tai thì nghe”. Lời này mang một ý nghĩa sâu xa. Nó không có nghĩa là chỉ một số người được chọn mới có tai để nghe, mà là ai cũng có khả năng hiểu dụ ngôn (ai cũng có tai). Nhưng điều quan trọng là phải dùng khả năng đó để thực hiện những điều mình đã nghe. Như lời giải thích của Carôlô, càng thực hiện Lời Chúa thì càng hiểu Nước Trời hơn, càng sống Lời Chúa thì càng hiểu Lời Chúa hơn. Sự hiểu biết không chỉ đến từ trí tuệ mà còn đến từ kinh nghiệm sống và thực hành đức tin.
Hôm nay Chúa Giêsu giải thích cho các Tông đồ về việc Ngài dùng dụ ngôn để giảng dạy về mầu nhiệm Nước trời. Lý do rất dễ hiểu vì đạo của Chúa là đạo từ trời. Bởi vậy trong lời giảng, Chúa Giêsu hay dùng dụ ngôn để giúp cho dân chúng dễ hiểu hơn. Thực ra khi nói về Nước trời, một thực tại không dễ diễn tả bằng ngôn ngữ loài người, và nếu có cố gắng, thì con người cũng không thể hiểu nổi vì nó vượt khỏi thế giới khả giác. Hoặc như thánh Phaolô nói: “Đây là thực tại mà mắt con người chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng người chưa từng cảm nghiệm”. Thực tại ấy không thể thu hẹp trong một vài câu định nghĩa, mà phải diễn tả bằng dụ ngôn, vì cách diễn tả này không giới hạn, nhưng tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu sâu xa hơn.
Câu trả lời của Chúa Giêsu, mới nghe thì hình như có vẻ mâu thuẫn. Chúa giảng dạy dân chúng hẳn là có mục đích để cho họ hiểu, và việc Chúa thay đổi cách giảng, dùng hình thức dụ ngôn, cũng không ngoài mục đích đó, vì dụ ngôn là sự so sánh cụ thể làm cho dễ hiểu một giáo huấn trừu tượng, nghĩa là dùng hình ảnh cụ thể trong đời sống để so sánh làm cho người ta dễ hiểu một giáo thuyết trừu tượng. Thế mà Chúa lại nói: Chúa giảng dạy dụ ngôn để cho dân chúng không hiểu được mầu nhiệm Nước trời, mà chỉ dành riêng cho các môn đệ được hiểu thôi. Như thế là tại sao?
Sau khi giảng dạy dụ ngôn người gieo giống, Chúa đã tuyên bố: “Ai có tai để nghe thì hãy nghe”. Chúa đã dùng dụ ngôn mà nói, có ý gợi lên nơi thính giả sự tò mò tìm hiểu, và nếu ai không hiểu mà hỏi Chúa sẽ được Chúa giải thích cho. Điều này đã được chứng minh qua việc các môn đệ đã đến hỏi và Chúa Giêsu đã giải thích riêng cho họ. Dụ ngôn không phải là một rào cản, mà là một lời mời gọi tìm kiếm.
Như đã phân tích, dụ ngôn là một thứ ngôn ngữ nói với những người trong cuộc, những người sống trong tình thân với nhau. Để hiểu được dụ ngôn, cần phải có hai đức tính quan trọng, đó là tâm hồn rộng mở và ước muốn tìm hiểu.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Về phần các con đã được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước trời, còn họ thì không”. Nói khác đi, các môn đệ đã được chấp nhận vào cộng đoàn những kẻ tin vào Chúa Giêsu, vì thế, các ông có thể hiểu rõ các mầu nhiệm. Còn những kẻ ở ngoài, nhất là những kẻ ở bên ngoài vì kiêu hãnh, vì khép kín, vì định kiến, như các luật sĩ và biệt phái, thì khi nhìn vào các mầu nhiệm họ chỉ thấy bí ẩn và khó hiểu. Chính cách trả lời của Chúa là tiêu chuẩn để biết được ai là người thuộc về Chúa và ai là người ngoài cuộc: “Nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe. Còn các con, mắt các con thật có phúc vì được thấy, tai các con có phúc vì được nghe” (Mt 13, 16). (Giải thích từ “Mỗi ngày một tin vui”)
Câu chuyện về nhà bác học và người Ả rập là một minh họa tuyệt vời cho việc Thiên Chúa mặc khải chính Ngài cho con người, và thái độ của con người trước mặc khải đó.
Một nhà bác học nọ muốn làm một cuộc nghiên cứu tại một vùng sa mạc. Ông nhờ một người Ả rập làm hướng đạo. Lên đường từ rạng đông, người bác học thấy người Ả rập làm một cử chỉ khó hiểu là trải tấm thảm lên cát và hướng về mặt trời phủ phục cầu nguyện. Nhà bác học hỏi: “Ông bạn làm gì vậy?” Người Ả rập trả lời: “Tôi cầu nguyện với Chúa.” Nhà bác học lại hỏi: “Nhưng ông bạn có thấy, có nghe, có sờ được Chúa không?” Thấy người Ả rập thinh lặng vì bị tấn công quá bất ngờ, nhà bác học nói thêm: “Ông bạn quả là một tên khùng, ông bạn tin ở một người mà ông bạn không bao giờ thấy được, sờ được.”
Đây là thái độ của nhiều người trong thế giới hiện đại: họ chỉ tin vào những gì có thể nhìn thấy, nghe thấy, sờ thấy bằng giác quan hay đo lường bằng khoa học. Mọi thứ vượt ra ngoài phạm vi khả giác đều bị coi là hoang đường, mê tín.
Ngày hôm sau, khi mặt trời vừa lên, nhà bác học bước ra khỏi lều nhìn chung quanh và đưa ra nhận xét: “Hẳn tối qua phải có một con lạc đà đi ngang qua đây.” Một chút ánh sáng lóe lên trong ánh mắt người Ả rập, anh hỏi nhà bác học: “Ông có thấy tận mắt con lạc đà không?” Dĩ nhiên nhà bác học chỉ có thể trả lời là không. Sau câu trả lời không ấy, người Ả rập kết luận: “Ông quả là một người ngu: ông không thấy, không nghe, không sờ được con lạc đà mà lại bảo rằng đêm qua nó đi qua đây.”
Tại đây, người Ả rập đã dùng chính lý lẽ của nhà bác học để phản biện. Anh ta chỉ ra sự mâu thuẫn trong lập luận của nhà bác học, rằng có những điều không thể trực tiếp cảm nhận bằng giác quan nhưng vẫn có thể biết được qua các dấu chỉ.
Nhà bác học liền lý luận như một nhà khoa học chân chính: “Tôi không thấy, không nghe, không sờ được nó, nhưng tôi thấy dấu chân nó trên cát, đó là dấu chỉ biểu hiện con lạc đà.” Người Ả rập đưa tay về hướng mặt trời và nói: “Ông hãy nhìn những dấu vết của Đấng Tạo Hoá. Hãy biết rằng Ngài hiện hữu và yêu thương chúng ta.”
Câu chuyện này minh họa một cách tuyệt vời rằng: Thiên Chúa hiện hữu và Ngài mặc khải chính Ngài không phải lúc nào cũng bằng cách xuất hiện trực tiếp mà qua những dấu vết, những dấu chỉ trong vũ trụ, trong cuộc sống và trong lịch sử cứu độ. Vũ trụ bao la với sự kỳ diệu của nó, vẻ đẹp của thiên nhiên, sự phức tạp của sự sống, trật tự của vạn vật… tất cả đều là những “dấu chân” của Đấng Tạo Hóa.
Quan trọng hơn, Thiên Chúa còn mặc khải chính Ngài một cách trọn vẹn nhất qua Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là Ngôi Lời nhập thể, là dấu chỉ tối cao của tình yêu và sự hiện hữu của Thiên Chúa. Những dụ ngôn Ngài nói, những phép lạ Ngài làm, cuộc đời, cái chết và sự phục sinh của Ngài, tất cả đều là những “dấu vết” hùng hồn để chúng ta nhận ra Thiên Chúa, để hiểu về Nước Trời.
Chúng ta, những Kitô hữu, được mời gọi không chỉ dừng lại ở việc nhìn thấy “dấu chân” của lạc đà, mà còn phải nhìn thấy “dấu vết” của Đấng Tạo Hóa trong mọi điều. Chúng ta phải có một con mắt đức tin để nhận ra sự hiện diện của Ngài trong vũ trụ, trong Lời Ngài, trong các Bí Tích, và trong chính cuộc đời của chúng ta.
Hôm nay, khi mừng lễ Thánh Gioakim và Thánh Anna, những bậc tiền nhân đạo hạnh đã dâng hiến một người con đầy ân phúc cho Thiên Chúa, chúng ta được nhắc nhở về một cuộc sống có phúc. Đó không chỉ là phúc về đời sống đạo hạnh hay dòng dõi tốt lành, mà phúc lớn nhất chính là được thấy và nghe Chúa Giêsu Kitô.
Chúng ta, những người đang sống, có cái phúc lớn hơn các thế hệ trước, thậm chí hơn cả các tiên tri và người công chính xưa kia. Chúng ta không thấy Chúa bằng mắt trần, nhưng chúng ta thấy Ngài bằng đức tin. Chúng ta không nghe tiếng Ngài trực tiếp, nhưng Lời Ngài được ghi lại trong Kinh Thánh, được công bố mỗi ngày, là Lời hằng sống.
Vậy, chúng ta hãy sống cái phúc lớn lao này bằng cách:
Mở rộng tâm hồn và khao khát tìm hiểu Lời Chúa: Đừng để sự kiêu hãnh hay định kiến làm chai đá trái tim chúng ta. Hãy đến với Lời Chúa bằng tâm thế của người môn đệ khao khát học hỏi.
Thực hành Lời Chúa trong đời sống: “Ai có tai thì nghe” không chỉ là nghe suông, mà là nghe để làm. Càng thực hành Lời Chúa, chúng ta càng hiểu sâu sắc hơn về Nước Trời và về chính Thiên Chúa.
Nhận ra dấu vết của Thiên Chúa trong mọi sự: Hãy tập nhìn vũ trụ, cuộc sống, và những biến cố xung quanh dưới ánh sáng đức tin. Thiên Chúa luôn hiện diện và mặc khải chính Ngài qua vô vàn dấu chỉ, chỉ cần chúng ta có đôi mắt để thấy và đôi tai để nghe.
Cuộc đời của Thánh Gioakim và Thánh Anna, dù không được ghi lại chi tiết trong Kinh Thánh Quy Điển, vẫn là biểu tượng của một cuộc sống đạo hạnh, dòng dõi thánh thiện và trên hết là niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa. Họ đã sống trong niềm mong đợi Đấng Cứu Thế, và con gái của họ, Đức Maria, đã trở thành hiện thân của lời hứa đó.
Ước mong mỗi người chúng ta, trong hành trình đức tin của mình, sẽ không ngừng tìm kiếm, lắng nghe và sống Lời Chúa, để cuộc đời chúng ta cũng trở thành một “dụ ngôn” sống động, một “dấu vết” cụ thể về tình yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới này. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
GIA ĐÌNH – NƠI ĐỨC TIN TỎA SÁNG
Hôm nay, trong niềm hân hoan mừng lễ Thánh Gioakim và Thánh Anna, song thân của Đức Trinh Nữ Maria, chúng ta được mời gọi suy tư về một chân lý nền tảng của đức tin Kitô giáo: gia đình là nền tảng của xã hội, là Hội Thánh thu hẹp trong đó đức tin được tỏa sáng khắp nơi.
Chính vì hiểu rõ vai trò và tầm quan trọng thiêng liêng của đời sống gia đình mà Chúa Giêsu, khi tới trần gian theo ý Đức Chúa Cha, Ngài cũng đã chọn một gia đình để sinh ra. Ngài không đến như một vị vua hùng cường từ trên trời giáng xuống, cũng không xuất hiện một cách đột ngột giữa quảng trường công cộng. Thay vào đó, Ngài chọn nhập thể và lớn lên trong một gia đình cụ thể, với một người mẹ là Maria và một người cha nuôi là thánh Giuse. Qua việc này, Chúa Giêsu muốn nâng cao phẩm giá của gia đình, khẳng định rằng gia đình luôn có vai trò đặc biệt trong lịch sử cứu rỗi. Gia đình không chỉ là nơi sinh thành và dưỡng dục con người về thể chất, mà còn là cái nôi đầu tiên hun đúc và truyền tải đức tin.
Và khi nhìn vào gia đình của chính Mẹ Maria, chúng ta thấy một điều kỳ diệu: Maria cũng đã xuất thân trong một gia đình đạo đức, thánh thiện. Cha của Người là thánh Gioakim và Mẹ của Người là bà thánh Anna. Hai ông bà không phải là những nhân vật quyền quý hay nổi tiếng trong lịch sử trần gian, nhưng cuộc đời của họ là một minh chứng sống động cho lòng tin, sự phó thác và lòng trung tín tuyệt đối vào Thiên Chúa. Hai ông bà Gioakim và Anna đã một mực tuân theo ý Chúa, một mực làm mọi sự theo khuôn mẫu của Chúa, và chính điều đó đã chuẩn bị cho họ lãnh nhận một hồng ân vô giá.
Đức Maria là hoa quả của hai Thánh Gioakim và Thánh Anna. Trong Kinh Thánh, chúng ta thường nghe câu: “Cây tốt sinh trái tốt” hay “Cha mẹ hiền lành để đức cho con”. Và trong ngôn ngữ bình dân, ta nói “Xem quả biết cây”. Tất cả những điều ấy muốn nói lên rằng Chúa luôn yêu thương những người biết tin tưởng, phó thác, cậy trông vào Ngài. Cuộc đời của Thánh Gioakim và Thánh Anna chính là một minh chứng hùng hồn cho chân lý này.
Đọc lại Kinh Thánh, chúng ta không thấy Thánh Kinh thuật lại lai lịch và cuộc sống của hai Thánh Gioakim và Anna một cách chi tiết như các nhân vật lớn khác. Tuy nhiên, các Thánh Truyền (Tradition) của Giáo Hội đã cho ta hiểu rõ rằng hai ông bà Gioakim và Anna luôn phó thác, cậy trông và tin tưởng vào Chúa một cách tuyệt đối. Hai ông bà đã già nua tuổi tác mà vẫn không có con, một nỗi khổ tâm lớn lao trong xã hội Do Thái cổ đại, nơi sự son sẻ bị coi là dấu hiệu của sự bất hạnh, thậm chí là sự trừng phạt của Thiên Chúa. Thế nhưng, họ không hề mất niềm tin, không hề oán trách Chúa. Thay vào đó, họ kiên trì cầu nguyện, sống công chính và khiêm tốn dâng hiến cuộc đời mình cho Thiên Chúa.
Và rồi, Thiên Chúa đã yêu thương, chấp nhận lời khẩn nguyện, cầu xin của hai ông bà và cho hai ông bà cưu mang, hạ sinh người con yêu quý là Maria. Đây không chỉ là một sự kiện tự nhiên, mà là một hồng ân cao cả Thiên Chúa dành cho ông bà Gioakim và Anna. Cái phúc mà song thân của Mẹ Maria đã lãnh nhận từ Thiên Chúa biến đổi cả cuộc đời của hai ông bà, như lời Thánh Vịnh 23, 5 đã viết: “Các Ngài được Chúa ban phúc lành, và được Thiên Chúa cứu độ hằng xót thương.” Thiên Chúa đã chúc phúc cho hai ông bà bằng tình yêu vĩnh cửu, tình yêu không bao giờ tàn lụi, phai mờ, tình yêu hiến trọn cho người khác.
Vì luôn trung tín với Thiên Chúa, hai ông bà được Thiên Chúa yêu thương một cách đặc biệt. Và Maria, con của hai ông bà, đã được Thiên Chúa cất nhắc, để ý và tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Điều này cho chúng ta thấy rằng, sự trung tín của cha mẹ không chỉ mang lại phúc lành cho bản thân họ, mà còn là nguồn ơn phúc lớn lao cho con cái. Chính nhờ phúc lành hai ông bà lãnh nhận nơi Thiên Chúa, qua các Ngài, phúc lành ấy cũng được đổ xuống cho muôn dân, muôn nước và từng người trong chúng ta qua Đức Maria và Chúa Giêsu.
Sự kiện sinh hạ Đức Maria không chỉ là một niềm vui riêng của Thánh Gioakim và Thánh Anna, mà còn là khởi đầu cho một niềm vui lớn lao cho toàn thể nhân loại. Ngay trong ca nhập lễ, lễ hai Thánh Gioakim và Thánh Anna, Hội Thánh đã ca rằng: ”Chúng ta hãy ngợi khen Thánh Gioakim và Thánh Anna nơi con cháu các Ngài, vì qua các Ngài, Chúa đã ban phúc lành cho muôn dân.” Lời ca này không chỉ là một sự tôn vinh hai vị thánh, mà còn là lời công bố về kế hoạch cứu độ vĩ đại của Thiên Chúa, trong đó gia đình của các Ngài đóng một vai trò thiết yếu.
Thánh Gioakim và Thánh Anna đã cảm nghiệm sâu xa lời của Chúa: “Phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con, vì được nghe. Quả thực Thầy bảo các con: nhiều vị ngôn sứ và nhiều Đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe” (Mt 13, 16-17). Dù các Ngài không được thấy Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt như các môn đệ, nhưng các Ngài đã “được thấy” kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đang thành hình qua người con gái của mình. Các Ngài đã “được nghe” tiếng Chúa nói qua sự đáp lại “xin vâng” của Đức Maria, qua lời hứa về Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra từ dòng dõi các Ngài.
Thánh Gioakim và Thánh Anna đã có phúc thật sự, các Ngài đã lãnh nhận biến cố làm Cha làm Mẹ của Đức Trinh Nữ Maria như một ân sủng tuyệt vời. Và các Ngài đã biến giây phút ân sủng ấy như một hồng ân cứu độ mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban tặng cho các Ngài. Qua các Ngài, hồng ân ấy được trao ban cho nhân loại. Các Ngài hạnh phúc vì đã xem thấy những điều và đón nhận điều quý trọng vô giá mà không người nào trên trần gian đã có thể lãnh nhận: hồng ân làm mẹ làm cha của người Nữ Tử Sion: Maria, người sẽ cưu mang Ngôi Lời Thiên Chúa. Hạnh phúc của các Ngài không phải là hạnh phúc trần thế, mà là hạnh phúc thiêng liêng, đến từ sự hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa và sự tham gia vào chương trình cứu độ của Ngài.
Mừng lễ hai Thánh Gioakim và Thánh Anna, nhân loại phải biết ơn các Ngài vì qua hai Ngài mà nhân loại lãnh nhận được ơn cứu độ qua cháu của hai Ngài là Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế mà muôn dân hằng mong đợi. Ngài chính là Đấng mà các ngôn sứ và người công chính xưa đã khao khát được thấy, được nghe, và nay đã được sinh ra từ chính dòng dõi của Gioakim và Anna. Sự hy sinh, lòng trung tín và đức tin vững vàng của hai ông bà đã mở đường cho mầu nhiệm Nhập Thể, mang ơn cứu độ đến cho toàn thể nhân loại.
Vì thế, mỗi khi chúng ta hiệp dâng lời cầu nguyện trong Thánh Lễ, chúng ta không ngừng ca tụng và cầu xin các Ngài chuyển cầu. Như lời nguyện nhập lễ trong lễ Thánh Gioakim và Anna đã nói: “Lạy Thiên Chúa là Đấng tổ phụ chúng con tôn thờ, Chúa đã ban cho thánh Gioakim và thánh Anna được diễm phúc sinh hạ Đức Maria là Thánh mẫu của Đức Kitô, Con Chúa nhập thể. Xin nhận lời hai thánh chuyển cầu cho chúng con được hưởng ơn cứu độ, Chúa đã hứa ban cho dân riêng của Chúa”. Lời nguyện này nhắc nhở chúng ta về mối liên kết thiêng liêng giữa các thế hệ, về dòng chảy của ân sủng từ Thiên Chúa qua các bậc tổ phụ, cha mẹ để đến với con cháu.
Hôm nay, trong bối cảnh xã hội hiện đại với biết bao thách thức và cám dỗ, vai trò của gia đình càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Chúng ta đang chứng kiến sự băng hoại của nhiều giá trị đạo đức, luân lý, và sự gia tăng của những tệ nạn xã hội. Nhiều gia đình đang phải đối mặt với những cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, khiến trẻ em lớn lên thiếu vắng một nền tảng vững chắc về tình cảm, nhân bản và đạo đức.
Mẫu gương Thánh Gioakim và Thánh Anna là lời nhắc nhở mạnh mẽ cho các bậc cha mẹ, đặc biệt là các Hiền mẫu. Giáo dục con cái không chỉ là việc cung cấp kiến thức hay kỹ năng sống, mà còn là việc hun đúc đức tin, gieo trồng những giá trị Tin Mừng vào tâm hồn non nớt của chúng. Chính trong gia đình, con cái học được những bài học đầu tiên về tình yêu, sự tha thứ, lòng quảng đại, sự khiêm tốn và lòng tin tưởng vào Thiên Chúa. Cha mẹ là những người thầy đầu tiên, không thể thay thế, và gương sáng của cha mẹ chính là bài học quý giá nhất cho con cái.
Mừng lễ Thánh Gioakim và Thánh Anna, chúng ta không chỉ nhớ đến hai vị thánh đã đi vào huyền thoại, mà còn được mời gọi nhìn vào chính gia đình mình. Gia đình của chúng ta có đang là một “Hội Thánh thu hẹp”, nơi đức tin được tỏa sáng, nơi con cái được nuôi dưỡng trong tình yêu Chúa và học hỏi những giá trị Tin Mừng? Chúng ta có đang sống tinh thần khiêm tốn, cậy trông và tín thác vào Chúa trong mọi hoàn cảnh, như Thánh Gioakim và Thánh Anna đã làm không?
Hãy noi gương hai vị thánh vĩ đại này, những người đã kiên trì tin tưởng vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa, ngay cả khi đối diện với nghịch cảnh. Hãy biến gia đình của chúng ta thành một nơi tràn đầy tình yêu thương, sự tha thứ, và lòng quảng đại. Hãy là những tấm gương sáng về đức tin, về đời sống đạo đức cho con cái mình, để chúng được lớn lên trong ân sủng và trở thành những chứng nhân sống động cho Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Nguyện xin Thánh Gioakim và Thánh Anna luôn chuyển cầu cho mỗi gia đình chúng ta, đặc biệt là cho các bậc cha mẹ và những người đang khao khát có con, để mọi gia đình đều trở thành cái nôi của đức tin và tình yêu, là nơi ươm mầm những thế hệ tương lai biết sống theo ý Chúa, và được hưởng trọn vẹn ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã hứa ban.
Lm. Anmai, CSsR
THÁNH GIOAKIM VÀ THÁNH ANNA – NỀN TẢNG CỦA MÁI NHÀ THIÊNG LIÊNG VÀ DI SẢN ĐỨC TIN VĨNH CỬU
Hôm nay, Giáo Hội hân hoan mừng kính Thánh Gioakim và Thánh Anna, song thân của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Truyền thống cổ xưa từ thế kỷ II đã lưu truyền cho chúng ta quý danh của hai vị thánh này. Lòng sùng kính hai vị là hiệu quả tất yếu của lòng đạo đức mà các tín hữu vẫn dành cho ái nữ của các vị là Đức Maria. Đức Lêô XIII đã thiết lập một lễ kính chung hai thánh Gioakim và thánh nữ Anna, vì trước kia hai ngài được kính riêng, cho đến khi có cuộc canh tân phụng vụ mới đây.
Mặc dù Kinh Thánh không ghi lại chi tiết về cuộc đời các ngài, nhưng truyền thống Giáo hội luôn tôn vinh vai trò của các ngài như là những nhân vật then chốt trong lịch sử cứu độ. Phúc thay thánh Gioakim và thánh nữ Anna vì người con các ngài đã sinh ra. Thiên Chúa đã ban cho các ngài phúc lành của mọi quốc gia, bởi chính từ dòng dõi của các ngài, Đức Kitô đã đến trần gian.
Truyền thống rất cổ xưa đã lưu truyền cho chúng ta quý danh của song thân Đức Maria. Trong thời đại và những hoàn cảnh lịch sử của mình, các ngài đã là tảng đá nền quý báu trong việc hoàn tất chương trình cứu độ nhân loại. Qua hai ngài, phúc lành Thiên Chúa đã hứa ban cho tổ phụ Abraham và dòng dõi đã truyền đến chúng ta, và chúng ta được tiếp nhận Đấng Cứu Thế nhờ sự cộng tác của các ngài, một sự cộng tác thầm lặng nhưng vô cùng ý nghĩa.
Thánh Gioan Damascene đã khẳng định chúng ta nhận biết hai đấng thánh diễm phúc này qua hoa quả của các ngài: Đức Trinh Nữ Maria là hoa quả tuyệt vời các ngài đã trao cho nhân loại. Thánh Anna cưu mang Đức Maria rất tinh tuyền vô nhiễm trong cung lòng – một đặc ân độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người. “Ôi hài nhi rất xinh đẹp, rất khả ái! – Thánh Tiến Sĩ đã reo lên – Ôi, nữ tử của Ađam và Mẹ Thiên Chúa, phúc thay lòng đã cưu mang Mẹ! Và phúc thay cánh tay đã bồng ẵm Mẹ, đôi môi đã được đặc ân hôn yêu Mẹ…” Lời ca ngợi này không chỉ dành cho Đức Maria mà còn gián tiếp tôn vinh song thân của Ngài.
Thánh Gioakim và thánh nữ Anna đã được đặc ân chăm sóc Mẹ Thiên Chúa trong mái nhà của các ngài. Thiên Chúa chắc chắn đã trào đổ nhiều ân sủng xuống cho các ngài trong suốt thời kỳ ấy. Thánh nữ Têrêxa Avila thường đặt các đan viện ngài thành lập dưới sự bảo trợ của thánh Giuse và thánh Anna, vì lý luận rằng: Lòng nhân lành Thiên Chúa rất lớn lao đến độ Người nhất định sẽ ưu đãi những ngôi nhà của bà ngoại tôn quý của Người. Chúng ta biết Chúa Giêsu đã xuống thế trực tiếp từ họ ngoại. Điều này nói lên tầm quan trọng của các ngài trong chương trình của Thiên Chúa.
Chúng ta có thể giao phó cho song thân Mẹ Maria tất cả những nhu cầu, nhất là những nhu cầu liên quan đến đời sống thánh trong gia đình chúng ta. Các ngài là những người hiểu thấu những gian nan, thử thách của đời sống hôn nhân và gia đình. Trong phụng vụ thánh lễ hôm nay, chúng ta cầu nguyện: “Lạy Chúa là Thiên Chúa các tổ phụ của chúng con, Chúa đã ban cho hai thánh Gioakim và Anna đặc ân làm song thân của Đức Maria, Thánh Mẫu Con Nhập Thể của Chúa. Ước chi những lời cầu xin của các ngài giúp chúng con đạt được phần rỗi mà Chúa đã hứa ban cho dân Chúa. Xin giúp chúng con biết tỉnh thức vì lợi ích của những người Chúa đã ủy thác cho chúng con chăm sóc. Xin dạy chúng con biết tạo lập một sắc thái nhân đạo và siêu nhiên trong những môi trường của chúng con, những nơi chúng con dễ dàng tìm thấy Chúa, vì Chúa là mục tiêu tối hậu, là kho tàng của chúng con.”
Lời nguyện này tóm tắt ý nghĩa sâu sắc của việc mừng kính Thánh Gioakim và Thánh Anna: các ngài là mẫu gương của đời sống Kitô hữu, đặc biệt là trong đời sống gia đình.
Mặc dù Kinh Thánh không nói nhiều về thánh Gioakim và Anna, nhưng qua đời sống của Đức Maria, chúng ta có thể hình dung phần nào khuôn mặt đức tin và giáo dục của các ngài. Bởi lẽ, “Xem quả thì biết cây, cây tốt không thể sinh trái sâu”. Đức Maria, Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Thiên Chúa, chắc chắn phải xuất thân từ một mái nhà thánh thiện, nơi Ngài được nuôi dưỡng trong tình yêu và đức tin vững vàng.
Gia sản tinh thần và truyền thống: Theo Đức Gioan Phaolô II, thánh Gioakim và thánh nữ Anna là một cảm hứng bất tận cho cuộc sống gia đình và xã hội thường nhật. Đức Thánh Cha kêu gọi: “Hãy loan truyền cho nhau, từ thế hệ này sang thế hệ khác, toàn bộ gia sản tinh thần của đời sống Kitô Giáo, gồm cả việc cầu nguyện.” Đức Maria tiếp nhận từ song thân của Mẹ những gia sản truyền thống của nhà Đavít, một di sản đã được truyền tụng qua nhiều thế hệ. Ở đó, Mẹ học biết thân thưa cùng Thiên Chúa Cha bằng thái độ cung kính sâu xa, Mẹ học biết đọc Thánh Vịnh, suy gẫm Lời Chúa. Cũng tại mái nhà ấy, Mẹ đã học biết những lời tiên tri nói về ngày đến của Đức Messiah – về nơi sinh của Con Mẹ…
Đức Maria – Người Thầy Đầu Tiên Của Chúa Giêsu: Khi đến giờ phải tạo lập một mái nhà riêng cho Chúa Giêsu sinh ra đời, Đức Maria chắc chắn đã nhớ lại mái nhà của song thân, với những giá trị và thói quen đạo đức mà Mẹ đã được thấm nhuần. Và rồi, Chúa Giêsu, khi còn là Hài Nhi và niên thiếu, cũng học biết từ nơi Mẹ những cách thế để thân thưa cùng Chúa Cha và những lời đầy khôn ngoan mà sau đó Người đã sử dụng trong thời kỳ rao giảng. Hài nhi Giêsu đã thảo hiếu lắng nghe từ môi miệng Đức Maria những lời cầu nguyện đầu tiên, giống như những con trẻ Do Thái ngay khi vừa bập bẹ biết nói đã được nghe cha mẹ dạy cho. Đức Maria chắc hẳn là một người thầy rất mực tốt lành! Mẹ đã phản chiếu sự phong phú nơi linh hồn đầy ân sủng của Mẹ một cách dịu hiền.
Di sản đức tin và trách nhiệm truyền thừa: Chúng ta, những thế hệ sau này, được tiếp nhận tặng ân đức tin vô giá và vô số tập tục tốt lành từ tổ tiên, những người đã giữ gìn và truyền lại cho chúng ta kho tàng quý giá ấy. Đồng thời, chúng ta cũng có bổn phận phải bảo tồn gia sản sinh động này để truyền lại cho người khác. Đây là một di sản không chỉ của kiến thức, mà là của đời sống, của kinh nghiệm về Thiên Chúa.
Hiện nay có những cuộc tấn công mãnh liệt đang chống lại các gia đình, không chỉ từ những tư tưởng thế tục hóa mà còn từ những áp lực kinh tế, xã hội. Chúng ta phải can đảm để bảo tồn di sản chúng ta đã được lãnh nhận. Chúng ta được mời gọi để làm giàu thêm những di sản ấy bằng đức tin và sự chiến đấu để sống các nhân đức nhân bản.
Làm cho Thiên Chúa hiện diện trong mái nhà: Bổn phận của chúng ta là phải làm cho Thiên Chúa hiện diện trong mái nhà của chúng ta bằng những phương thế truyền thống Kitô Giáo. Những phương thế này tưởng chừng đơn giản nhưng lại mang lại hiệu quả sâu sắc trong việc nuôi dưỡng đức tin và tạo bầu khí thiêng liêng trong gia đình:
Đọc kinh trước và sau khi dùng bữa: Dâng lời tạ ơn Thiên Chúa cho những của ăn vật chất.
Đọc kinh tối trong gia đình: Cùng nhau cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa trước khi đi ngủ.
Đọc Lời Chúa với người cao niên: Giúp đỡ người lớn tuổi tiếp cận Lời Chúa.
Đọc một lời kinh ngắn cho những người qua đời: Nhắc nhớ sự hiệp thông của các thánh và lòng hiếu thảo.
Nhắc nhớ những ý nguyện của gia đình và của Đức Thánh Cha: Rộng mở tấm lòng cầu nguyện cho Giáo hội hoàn vũ.
Cùng tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật: Đỉnh cao của đời sống Kitô hữu, nơi gia đình cùng quy tụ để thờ phượng Chúa.
Cùng lần chuỗi Mân Côi: Kinh nguyện được các Đức Thánh Cha thường xuyên cổ võ cho các gia đình. Kinh Mân Côi rất phù hợp với thời biểu gia đình, kể cả những chuyến du lịch, vì nó đơn giản, dễ thực hiện mọi lúc mọi nơi.
Không cần dồn nén quá nhiều việc đạo đức trong các gia đình, tuy nhiên, phải có một số nào đó để duy trì ngọn lửa đức tin. Những việc đạo đức này không phải là gánh nặng, mà là những hơi thở thiêng liêng, những sợi dây kết nối gia đình với Thiên Chúa.
Cầu nguyện – Chìa khóa hiểu biết tâm hồn con cái: Các bậc cha mẹ cùng cầu nguyện với con cái sẽ dễ dàng tìm thấy con đường để hiểu biết tâm hồn chúng. Khi cha mẹ và con cái cùng quỳ gối cầu nguyện, họ không chỉ nói chuyện với Chúa mà còn nói chuyện với nhau, chia sẻ những tâm tư, nỗi niềm. Hơn nữa, những người trẻ sẽ không bao giờ quên được gương sáng của cha mẹ vì đã giúp họ cầu nguyện và đến với Đức Mẹ trong những nhu cầu cần thiết. Chúng ta mang ơn cha mẹ vì các ngài đã đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu Thánh Thể. Chắc chắn, những bài học này là di sản lớn lao mà chúng ta được thừa hưởng, di sản quý giá hơn mọi của cải vật chất.
Những hoàn cảnh xã hội hiện nay đòi các gia đình phải gắn bó với những niềm tin và quảng đại trong cách sống. Việc chúng ta khẳng định quyết tâm của mình sẽ rất đẹp lòng Đức Mẹ. Chúng ta quyết tâm trở nên những khí cụ liên kết các thành phần trong gia đình, nhất là qua các hành động phục vụ vui tươi và những hy sinh nhỏ mọn hằng ngày để giúp đỡ người khác. Một quyết tâm như thế sẽ đưa chúng ta đến việc cầu nguyện cho thành phần nào cần được cầu nguyện nhiều nhất trong gia đình, giúp đỡ thành viên nào yếu đuối hoặc thành viên nào đang sa sút, và đặc biệt là sống yêu thương đối với thành viên nào đang yếu bệnh hoặc gặp gian truân.
Hôn nhân là con đường thánh thiện: Tình yêu dẫn đến hôn nhân cũng là một con đường thánh thiện, một ơn gọi, một con đường để hiến dâng toàn diện cho Thiên Chúa. Tình yêu này phải hiệu quả và hoạt động nơi hoa trái, tức là con cái. Tình yêu chân thực sẽ biểu hiện trong việc nỗ lực dạy dỗ con cái biết sống chuyên cần, tiết độ, và có giáo dục, theo đúng ý nghĩa của từ ngữ… và trở nên những tín hữu tốt lành.
Phát triển nhân đức nhân bản: Ước chi các nhân đức nhân bản được phát triển nơi gia đình: nhân cách mạnh mẽ, điều độ trong việc sử dụng vật chất, có tinh thần trách nhiệm, quảng đại, siêng năng… Gia đình là trường học đầu tiên và quan trọng nhất của các nhân đức. Và ước chi mọi người đều biết tiêu dùng một cách kiệm ước, luôn nhớ đến nhiều người trên thế giới vẫn còn đang túng thiếu, thể hiện lòng bác ái và công bằng xã hội.
Cha mẹ – Người quản lý kho tàng quý báu của Thiên Chúa: Tình yêu thương con cái đích thực sẽ đưa cha mẹ đến chỗ quan tâm chọn trường học cho con cái, bởi vì điều này ảnh hưởng đến phần rỗi của chúng. Cũng tình yêu ấy sẽ thúc đẩy cha mẹ lo tìm nơi nghỉ ngơi và giải trí lành mạnh cho con cái – thường họ phải hy sinh sở thích và quyền lợi khi tránh những môi trường có thể làm cho việc sống đạo trở nên khó khăn. Cha mẹ đừng bao giờ quên rằng mình là người quản lý một kho tàng quý báu của Thiên Chúa – đó chính là con cái mình. Là những tín hữu, họ phải tạo lập một gia đình, nơi có Chúa Kitô hiện diện, nơi mà Lời Chúa được sống và các nhân đức được thực hành.
Ơn gọi dâng hiến: Chắc chắn hai thánh Gioakim và Anna luôn ý thức Thiên Chúa đang yêu sách ái nữ của các ngài một điều gì đó thật vĩ đại, bởi vì trẻ Maria đã biểu lộ những đặc ân tuyệt vời trên phương diện nhân bản cũng như siêu nhiên. Các ngài đã dâng ái nữ cho Thiên Chúa, như những bậc cha mẹ Do Thái thường làm. Các bậc cha mẹ củng cố tình yêu cho nhau bằng việc cầu nguyện sẽ biết tôn trọng thánh ý Thiên Chúa đối với con cái của họ. Tình yêu giữa cha mẹ càng được củng cố hơn nữa nếu như con cái họ được ơn tận hiến cho Thiên Chúa. Các bậc cha mẹ thường ước ao và kêu xin Thiên Chúa ơn này, bởi vì như thánh Josemaría Escrivá nói: Dâng con cái để phụng sự Chúa không phải là một hy sinh: đó là một vinh dự và một niềm vui, một vinh dự cao cả và một niềm vui lớn lao. Con cái sẽ nghiệm thấy vẻ đẹp của hành vi hiến dâng những năng lực của chúng cho Nước Chúa, bởi vì bằng nhiều cách, chúng đã học biết thực hiện điều ấy ngay trong nếp sống ở gia đình.
Gương sáng của Thánh Gioakim và Thánh Anna là một lời mời gọi sâu sắc để mỗi gia đình Kitô hữu trở thành một “mái nhà Đức Mẹ”, nơi mà Lời Chúa được sống, nơi mà tình yêu thương được nuôi dưỡng, và nơi mà đức tin được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Hôm nay, chúng ta nài xin hai thánh Gioakim và Anna giúp chúng ta làm cho mái nhà của chúng ta trở thành một nơi dễ dàng gặp được Thiên Chúa. Chúng ta hãy cậy nhờ sự cầu bầu của Đức Mẹ. Đức Gioan Phaolô II đã khuyến khích: “Hợp nhất cùng nhau, chúng ta hãy hướng tâm hồn về Mẹ Maria. Xin Mẹ hãy tỏ ra là Từ Mẫu của chúng ta hết thảy. Xin Mẹ hãy dâng lời cầu nguyện của chúng ta lên Chúa Kitô, Đấng đã trở nên Con của Mẹ, để Người thương tình chấp nhận.”
Ước gì mỗi gia đình chúng ta, noi gương Thánh Gia, và đặc biệt là gương sáng của Thánh Gioakim và Thánh Anna, trở thành một pháo đài đức tin giữa những thách thức của thời đại. Để từ những mái nhà đó, hạt giống đức tin, tình yêu và sự thánh thiện được gieo vãi, lớn lên, và sinh hoa trái dồi dào cho Nước Trời, góp phần vào công cuộc cứu độ của Thiên Chúa. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
THÁNH GIOAKIM VÀ THÁNH ANNA: LINH ĐẠO CỦA NIỀM TIN GIỮA THỬ THÁCH
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội cùng hân hoan mừng lễ Thánh Gioakim và Thánh Anna, song thân của Đức Trinh Nữ Maria, và như chúng ta vẫn quen gọi một cách trìu mến, là ông ngoại và bà ngoại của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ của chúng ta. Khi chiêm ngắm cuộc đời của hai vị thánh này, chúng ta được mời gọi đi sâu vào một khía cạnh ít được biết đến nhưng lại vô cùng sâu sắc: linh đạo của niềm tin giữa muôn vàn thử thách.
Về phương diện lịch sử, chúng ta thừa nhận rằng các tài liệu chính thức của Giáo Hội không cung cấp nhiều chi tiết cụ thể, chính xác về đời sống của Thánh Gioakim và Thánh Anna. Tuy nhiên, qua một số tài liệu cổ, đặc biệt là các ngụy thư như cuốn Ngụy kinh của Thánh Giacôbê, chúng ta vẫn tìm thấy những thông tin dù rất vắn gọn nhưng đủ để gợi lên những suy tư sâu sắc về cuộc đời của các Ngài. Cuốn sách này ghi lại về Thánh Anna rằng: “Bà đã phải chờ đợi rất lâu mới có được đứa con. Đây là một thử thách lớn cho bà và chồng bà là Gioakim. Cuối cùng thì một thiên thần đã báo tin cho bà về việc ra đời của một bé gái tên là Maria. Hai vợ chồng đã dâng con trẻ trong đền thờ cho Chúa.”
Những chỉ dẫn này, dù không phải là chân lý mặc khải, nhưng lại nói với chúng ta một điều rất quan trọng về linh đạo của những người công chính trong Cựu Ước.
Khi đọc Kinh Thánh Cựu Ước, đặc biệt là qua cuộc đời của các tổ phụ hay những bậc công chính, chúng ta có thể nhận ra một mẫu số chung: hầu hết các ngài là những người bị thử thách nặng nề. Tuy nhiên, điểm đáng kinh ngạc là các Ngài vẫn giữ vững lòng trung kiên trong thử thách. Hơn thế nữa, các Ngài còn biết nhận ra tình thương của Chúa qua những thử thách đó, để rồi biết dâng lời cám tạ Thiên Chúa.
Hãy nhớ lại một chút cuộc đời của Tổ phụ Abraham, người đã phải chờ đợi bao năm mới có con, và rồi lại được Chúa thử thách bằng việc ra lệnh hiến tế chính con trai mình. Tổ phụ Isaac, người con của lời hứa, cũng đã sống một cuộc đời đầy thử thách nhưng luôn vâng phục thánh ý Chúa. Tổ phụ Giacob phải bôn ba lưu lạc, đối mặt với nhiều gian truân, nhưng không ngừng bám víu vào Thiên Chúa. Và đặc biệt là ông Giob, một người công chính bị thử thách đến tận cùng của sự mất mát, nhưng vẫn giữ vững đức tin và thốt lên: “Chúa ban cho, Chúa lấy đi, xin chúc tụng danh Chúa!”
Rồi đến sau này, trong lịch sử cứu độ, chúng ta cũng thấy những cuộc đời tương tự: bà Anna, mẹ của ngôn sứ Samuen, đã phải chịu đựng nỗi đau hiếm muộn và lời đàm tiếu xã hội trước khi được Chúa thương ban cho một người con. Bà Êlizabét, mẹ của Gioan Tẩy Giả, cũng đã trải qua nhiều năm hiếm muộn trong tuổi già trước khi nhận được ơn lạ của Thiên Chúa. Tất cả đều phải trải qua những chặng đường như thế: đường hầm của sự chờ đợi, của nỗi đau, của sự thử thách đức tin.
Tôi tin rằng Thánh Gioakim và Thánh Anna cũng không đi ra ngoài con đường đó. Họ cũng đã bước vào linh đạo mà Chúa hướng dẫn các con cái yêu quý của Người thời xa xưa. Đọc lại Cựu Ước, chúng ta thấy quả thực chính nhờ bước vào con đường này, con đường của thử thách và kiên trì, mà các ngài đã trở thành công chính trước mặt Thiên Chúa và loài người. Họ không tìm cách tránh né thử thách, không mất niềm tin khi mọi sự dường như chống lại họ, mà ngược lại, họ dùng thử thách làm bàn đạp để tin cậy hơn, để phó thác hơn vào Thiên Chúa.
Nhìn lại một chút cuộc đời của Ông Gioakim và bà Anna qua những chỉ dẫn ít ỏi mà chúng ta có được, chúng ta cũng thấy một nét tương tự như thế. “Ông Bà đã phải chờ đợi rất lâu mới có được đứa con”. Đây là một thử thách lớn cho ông bà, không chỉ về mặt cá nhân mà còn về mặt xã hội và tôn giáo thời bấy giờ, khi mà việc không có con thường bị coi là một hình phạt hay một sự bất hạnh. Nỗi khao khát có con, niềm mong mỏi được làm cha mẹ chắc chắn đã đè nặng lên tâm hồn các Ngài trong suốt nhiều năm.
Nhưng trong sự chờ đợi mòn mỏi ấy, các Ngài đã không mất đi niềm tin. Cuối cùng, Thiên Chúa đã đáp lời cầu nguyện thiết tha của các Ngài, và một thiên thần đã báo tin cho bà về việc ra đời của một bé gái tên là Maria. Đây không chỉ là một phép lạ, mà còn là đỉnh cao của sự trung kiên và lòng tin của hai ông bà. Và ngay sau đó, một hành động minh chứng cho lòng biết ơn và sự phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa: “Hai vợ chồng đã dâng con trẻ trong đền thờ cho Chúa.” Đây là một hành động phi thường, cho thấy các Ngài không coi Maria là sở hữu riêng của mình, mà là một hồng ân từ Thiên Chúa, và các Ngài sẵn sàng hoàn trả hồng ân ấy cho Đấng đã ban tặng.
Vâng, Ông Gioakim và bà Anna đã phải trải qua nhiều thử thách nhưng những thử thách đó đã không làm cho các Ngài mất đi niềm tin vào Tình Thương của Thiên Chúa. Trái lại, thử thách càng làm cho đức tin của các Ngài thêm vững mạnh, thêm tinh tuyền. Chúng ta có thể học được rất nhiều từ gương mẫu này. Cuộc sống của chúng ta cũng đầy rẫy những thử thách: bệnh tật, mất mát, thất bại, cô đơn, những ước mơ không thành hiện thực, những lời cầu nguyện dường như không được đáp lời. Liệu chúng ta có giữ vững niềm tin, có nhận ra bàn tay yêu thương của Chúa giữa những khó khăn đó không? Liệu chúng ta có biết dâng lời cám tạ ngay cả khi mọi sự dường như chống lại chúng ta?
Để kết thúc một vài suy tư hôm nay, tôi xin gửi đến anh chị em một câu chuyện đầy cảm động của văn sĩ Marie Noel. Câu chuyện này minh họa một cách sống động niềm tin kiên cường và lòng biết ơn của con người ngay giữa những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất.
“Hôm đó là ngày cuối năm, từ trời cao Thiên Chúa nhìn xuống dân gian. Mắt Ngài dừng lại tại một nhà thờ đang tập trung để hát bài “Kinh Tạ Ơn”. Nhà thờ không còn tháp chuông. Vị linh mục phải dùng hết sức mình khua vào tường, gõ lên mái nhà để giục giã dân chúng đến nhà thờ. Tuy là ngày mưa lạnh, thế mà nhà thờ vẫn chật ních.
Thiên Chúa nhận ra bà Têrêsa mà ngôi nhà của bà vừa bị thiêu rụi và giờ đây đang phải trú đỡ trong một túp lều lạnh lẽo. Đáng chú ý hơn là nàng Madalena mà người chồng mới bị giết trước mắt mình. Bên cạnh bà là Rosa có ba người con trai đang bị cầm tù. Kia là ông Thêôđôre mà người vợ và hai con bị chôn sống. Đây là cô Magarita trong lúc trốn chạy đã lạc mất đứa con thơ. Kia là ông Pierre, một thương binh từ mặt trận mới trở về.
Tất cả đều liên kết với nhau trong cùng một tâm tình tạ ơn vì mọi hồng ân Chúa ban xuống trong năm qua.
Từ trời cao, Thiên Chúa rất đỗi thán phục, Ngài nói với các Thiên thần:
“Thật Ta bảo thật các ngươi là những tạo vật thánh thiện. Các ngươi hãy nhìn xuống đám dân đáng thương kia. Mười hai tháng qua, họ đã phó thác cho Ta, thế mà Ta chỉ giáng xuống cho họ tai họa và kinh hoàng. Họ đã kêu xin hòa bình, vậy mà Ta đã gửi xuống chiến tranh. Họ đã xin lương thực hằng ngày, vậy mà Ta đã gửi đói khổ. Họ đã tin tưởng ký thác tổ quốc và gia đình trong tay Ta, nhưng Ta lại để cho gia đình và tổ quốc họ ra điêu linh”.
Dĩ nhiên, Ta có lý do của Ta, mà những kẻ bên ngoài không thể hiểu thấu được. Loài người không thể hiểu được những gì Ta làm. Họ phải gánh chịu mọi hậu quả, vậy mà họ vẫn ca ngợi tạ ơn như thể Ta bao bọc họ theo lời họ cầu xin. Quả thực niềm tin của họ thực lớn lao. Hỡi các thiên thần và các thánh, hãy hát lớn lên, hát để ca tụng những con người trong cơn hoạn nạn mà vẫn tiếp tục ngợi khen.”
Nói xong Thiên Chúa liền cất lên: “Hỡi loài người, chúng tôi ca ngợi các ngươi”.
Và các thiên thần cùng hòa tiếng ca tụng loài người.
Câu chuyện này là một minh chứng hùng hồn cho linh đạo của niềm hy vọng và lòng biết ơn mà Thánh Gioakim và Thánh Anna đã sống. Nó cho thấy rằng, đức tin thực sự không phải là không có thử thách, không có đau khổ, mà là khả năng nhận ra Thiên Chúa hiện diện và yêu thương ngay giữa những bóng tối của cuộc đời. Niềm tin không đòi hỏi chúng ta phải hiểu hết mọi kế hoạch của Chúa, mà là chấp nhận phó thác hoàn toàn vào sự khôn ngoan và tình yêu vô biên của Ngài.
Cuộc sống của mỗi người chúng ta cũng là một hành trình đức tin. Sẽ có những lúc chúng ta phải đối mặt với những thử thách dường như không thể vượt qua, những nỗi đau tưởng chừng không thể chịu đựng, những mất mát khiến tâm hồn tan nát. Nhưng chính trong những khoảnh khắc đó, chúng ta được mời gọi nhìn lên gương các bậc tổ phụ, nhìn lên gương Thánh Gioakim và Thánh Anna, để kiên trì giữ vững niềm tin, để không ngừng hy vọng, và để cất lên lời ca tụng tạ ơn.
Khi chúng ta nhận ra rằng mọi sự xảy ra đều nằm trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, dù chúng ta không thể hiểu thấu, thì niềm vui và bình an sẽ ngự trị trong tâm hồn chúng ta. Khi chúng ta biết phó thác hoàn toàn cuộc đời mình cho Chúa, chúng ta sẽ tìm thấy ý nghĩa ngay cả trong đau khổ. Và khi chúng ta biến mọi thử thách thành cơ hội để bày tỏ lòng biết ơn, chúng ta sẽ thực sự làm rạng danh Chúa.
Lạy Chúa,
Xin củng cố trong chúng con niềm hy vọng. Xin cho chúng con biết kiên trì trong mọi thử thách, gian nan, đau khổ mà cuộc đời mang đến. Và giữa những vất vả, lao nhọc của cuộc đời này, xin cho chúng con tìm thấy được niềm vui và nhận ra được thánh ý của Chúa, để lúc nào môi miệng chúng con cũng tràn ngập những lời ca tụng tạ ơn.
Lạy Thánh Gioakim và Thánh Anna, xin phù trợ chúng con, xin chuyển cầu cho chúng con trước tòa Chúa. Xin cho các gia đình chúng con luôn biết noi gương các Ngài, sống trung kiên trong đức tin, kiên trì trong thử thách, và luôn biết dâng lời tạ ơn Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, để cuối cùng chúng con cũng được chung hưởng vinh quang với Chúa trong Nước Trời. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
THÁNH GIOAKIM VÀ THÁNH ANNA: PHÚC THẬT CỦA KẺ ĐƯỢC THẤY, ĐƯỢC NGHE, VÀ TRÁI TIM KIÊN TRÌ TRONG THỬ THÁCH
Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội hân hoan mừng lễ Thánh Gioakim và Anna, thân sinh và thân mẫu của Đức Trinh Nữ Maria – nói rõ và xa hơn một chút là ông bà ngoại của Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta. Trong Tin Mừng, tên của các Ngài không được ghi chép cụ thể, một sự thinh lặng đầy ý nghĩa. Tuy nhiên, truyền thống thánh thiện của Giáo Hội đã bảo tồn và truyền lại cho chúng ta những thông tin ít ỏi nhưng quý giá về cuộc đời các Ngài.
Trong cuốn Tự Điển Các Thánh mới được ấn hành gần đây, hay qua các Ngụy kinh cổ kính như của Thánh Giacôbê, chúng ta đọc được những lời như thế này về Thánh Anna: “Bà đã phải chờ đợi rất lâu mới có được đứa con. Đây là một thử thách lớn cho bà và chồng bà là Gioakim. Cuối cùng thì một thiên thần đã báo tin cho bà về việc ra đời của một bé gái gọi là Maria. Hai vợ chồng đã dâng con trẻ trong đền thờ cho Chúa.”
Những chỉ dẫn này, dù vắn tắt, đã nói với chúng ta điều gì? Chúng ta được mời gọi nhìn vào cuộc đời các Ngài không chỉ như những nhân vật lịch sử, mà là những mẫu gương cho đời sống đức tin của chính mình.
Khi đọc trong Cựu Ước, qua cuộc đời của những tổ phụ hay một số những bậc công chính, chúng ta có thể thấy rất rõ một quy luật thiêng liêng: Hầu hết các ngài là những người bị thử thách nặng nề, nhưng các Ngài vẫn trung kiên trong thử thách và hơn nữa các Ngài còn biết nhận ra tình thương của Chúa qua những thử thách đó để rồi biết dâng lời cám tạ Thiên Chúa.
Chúng ta hãy nhớ lại một chút cuộc đời của Tổ phụ Abraham, người đã được Chúa hứa cho một dòng dõi đông như sao trời, nhưng phải chờ đợi đến tuổi già mới có Ysaac, và thậm chí còn bị thử thách đến mức phải dâng con mình làm lễ tế. Tổ phụ Isaac cũng phải sống trong sự chờ đợi, và Tổ phụ Giacob phải trải qua bao gian truân, lừa lọc. Đặc biệt là Giób, người công chính bị thử thách đến tận cùng của sự mất mát. Rồi sau này đến bà Anna, mẹ của ngôn sứ Samuen, người phải sống trong nỗi đau hiếm muộn triền miên trước khi được Chúa nhậm lời. Bà Êlisabét, mẹ của Gioan Tẩy giả, cũng vậy, ở tuổi già mới được cưu mang. Tất cả đều phải trải qua những chặng đường như thế.
Tôi tưởng Thánh Gioakim và Thánh Anna cũng không đi ra ngoài con đường đó. Họ cũng phải trải qua thử thách lớn lao của sự son sẻ, của nỗi buồn không có con nối dõi, điều mà xã hội thời bấy giờ coi là một sự ô nhục. Vậy có nên chăng khi chúng ta gọi con đường này – con đường của thử thách, của sự chờ đợi trong đức tin – là linh đạo Chúa hướng dẫn các con cái yêu quý của Người thời xa xưa? Đó là linh đạo của sự thanh luyện, của sự phó thác, của việc nhận ra quyền năng và tình yêu Chúa trong giới hạn của con người.
Đọc lại Cựu Ước chúng ta thấy quả thực chính nhờ bước vào con đường này mà các ngài đã trở thành công chính trước mặt Thiên Chúa và loài người. Họ không trở nên công chính vì không có thử thách, mà vì đã kiên trì và trung thành trong thử thách.
Nhìn lại một chút cuộc đời của Ông Gioakim và bà Anna, chúng ta cũng thấy một nét tương tự như thế: “Ông Bà đã phải chờ đợi rất lâu mới có được đứa con. Đây là một thử thách lớn cho ông bà. Cuối cùng thì một thiên thần đã báo tin cho bà về việc ra đời của một bé gái gọi là Maria. Hai vợ chồng đã dâng con trẻ trong đền thờ cho Chúa.”
Vâng, Ông Gioakim và bà Anna đã phải trải qua nhiều thử thách, nhưng những thử thách đó đã không làm cho các ngài mất đi niềm tin vào Tình Thương của Thiên Chúa. Chính trong sự kiên nhẫn chờ đợi và phó thác, các ngài đã chuẩn bị một tâm hồn và một gia đình xứng đáng để đón nhận hồng ân lớn lao nhất: Đức Maria, Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Để kết thúc một vài suy tư hôm nay, tôi xin gửi đến anh chị em một câu chuyện đầy cảm động của Văn sĩ Marie Noel, một câu chuyện minh họa sâu sắc về tinh thần tạ ơn ngay giữa hoạn nạn, một tinh thần mà chúng ta có thể thấy nơi các bậc công chính xưa và nơi chính các Thánh Gioakim và Anna:
Hôm đó là ngày cuối năm, từ trời cao Thiên Chúa nhìn xuống dân gian, mắt Ngài dừng lại tại một nhà thờ đang tập trung để hát bài “Kinh Tạ Ơn”. Nhà thờ không còn tháp chuông. Vị linh mục phải dùng hết sức mình khua vào tường, gõ lên mái nhà để giục giã dân chúng đến nhà thờ. Tuy là ngày mưa lạnh, thế mà nhà thờ vẫn chật ních.
Thiên Chúa nhận ra bà Têrêsa mà ngôi nhà của bà vừa bị thiêu rụi và giờ đây đang phải trú đỡ trong một túp lều lạnh lẽo. Đáng chú ý hơn là nàng Madalena mà người chồng mới bị giết trước mắt mình. Bên cạnh bà là Rosa có ba người con trai đang bị cầm tù. Kia là ông Thêôđôre mà người vợ và hai con bị chôn sống. Đây là cô Magarita trong lúc trốn chạy đã lạc mất đứa con thơ. Kia là ông Pierre, một thương binh từ mặt trận mới trở về.
Tất cả đều liên kết với nhau trong cùng một tâm tình tạ ơn vì mọi hồng ân Chúa ban xuống trong năm qua.
Từ trời cao, Thiên Chúa rất đỗi thán phục, Ngài nói với các Thiên thần: “Thật Ta bảo thật các ngươi là những tạo vật thánh thiện. Các ngươi hãy nhìn xuống đám dân đáng thương kia. Mười hai tháng qua, họ đã phó thác cho Ta, thế mà Ta chỉ giáng xuống cho họ tai họa và kinh hoàng. Họ đã kêu xin hòa bình, vậy mà Ta đã gửi xuống chiến tranh. Họ đã xin lương thực hằng ngày, vậy mà Ta đã gửi đói khổ. Họ đã tin tưởng ký thác tổ quốc và gia đình trong tay Ta, nhưng Ta lại để cho gia đình và tổ quốc họ ra điêu linh.”
“Dĩ nhiên, Ta có lý do của Ta, mà những kẻ bên ngoài không thể hiểu thấu được. Loài người không thể hiểu được những gì Ta làm. Họ phải gánh chịu mọi hậu quả, vậy mà họ vẫn ca ngợi tạ ơn như thể Ta bao bọc họ theo lời họ cầu xin. Quả thực niềm tin của họ thực lớn lao. Hỡi các thiên thần và các thánh, hãy hát lớn lên, hát để ca tụng những con người trong cơn hoạn nạn mà vẫn tiếp tục ngợi khen!”
Nói xong Thiên Chúa liền cất lên: “Hỡi loài người, chúng tôi ca ngợi các ngươi”. Và các thiên thần cùng hòa tiếng ca tụng loài người.
Câu chuyện này nói lên một cách hùng hồn sức mạnh của lòng tin và sự tạ ơn ngay giữa nghịch cảnh, một tinh thần mà Thánh Gioakim và Anna đã sống.
Trong bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay, Đức Giêsu nói: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe.” (Mt 13,16). Trong bối cảnh phụng vụ hôm nay, lời này của Đức Giêsu được ứng nghiệm một cách đặc biệt cho đôi mắt và đôi tai của “ông bà ngoại” của Người, nghĩa là của hai thánh Gioakim và Anna. Các ngài đã được thấy và nghe những dấu chỉ báo trước về Đấng Thiên Sai qua Đức Maria, con gái của mình.
Tuy nhiên, lời này của Đức Giêsu cũng liên quan trực tiếp đến đôi mắt và đôi tai của mỗi người chúng ta.
Thực vậy, qua kinh nghiệm cuộc sống, nhất là khi chúng ta có dịp đến phục vụ những người tàn tật, những người mù, những người câm điếc, chúng ta mới nhận ra rằng sự kiện chúng ta thấy được và nghe được, là một ơn huệ vĩ đại, một đặc ân không phải ai cũng có. Và khi nhận ra đôi mắt và đôi tai của chúng ta là một ơn huệ, chúng ta được mời gọi nhận ra Đấng ban ơn để tạ ơn và ca tụng, và chia sẻ ơn huệ mà chúng ta có cho người khác, nhất là cho những người tàn tật, không có cùng một ơn huệ như chúng ta.
Tuy nhiên, ngay trước đó, Đức Giêsu còn nói tới một bệnh mù khác, một bệnh điếc khác: “họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe, không hiểu” (c. 13). Như thế, mối phúc mà Đức Giêsu nói tới, không chỉ là khả năng thể lý nhìn thấy sự vật và nghe được âm thanh. Đó là một khả năng thiêng liêng.
Thật vậy, đôi mắt của chúng ta được dựng nên, có “ơn gọi” không phải chỉ là nhìn thấy những điều hữu hình, nhưng qua những điều hữu hình, nhận ra những thực tại vô hình. Thực vậy, chúng ta được mời gọi nhìn thấy sự vật không chỉ như là sự vật, nhưng còn là những quà tặng, những ơn huệ, những dấu chỉ, nói lên sự hiện diện của ai đó, của tình thương, nói lên Đấng ban ơn, nói lên chính Đấng tạo dựng.
Và nhất là khi nhìn thấy một người, đôi mắt của chúng ta không được dừng lại ở vẻ bề ngoài, ở ngoại hình, ở trang phục, không được coi người này là đối tượng để mình thỏa mãn nhu cầu, thỏa mãn lòng ham muốn; nhưng đôi mắt của chúng ta được mời gọi nhìn người khác trong sự thật, nghĩa là người đó là một ngôi vị tự do và có lòng ước ao, có ơn gọi riêng, có quá khứ và những vấn đề riêng, có hành trình riêng cần tôn trọng. Nếu sự thật là người ấy có những hành vi phạm lỗi đáng lên án, thì chúng ta được mời gọi nhận ra một sự thật khác lớn hơn: người ấy còn là một ngôi vị bất hạnh đang đau khổ, và có khi người này ở trong bất hạnh mà không biết. Đó cái nhìn của Người Cha nhân hậu đối với người con hoang đàng, đó là cái nhìn của Đức Giêsu về người phụ nữ ngoại tình, đó là cái nhìn của Ba Ngôi Thiên Chúa đối với loài người chúng ta, với từng người chúng ta.
Đôi mắt của thánh Gioakim và thánh Anna, đôi mắt của các môn đệ và đôi mắt của chúng ta thật là có phúc, như Đức Giêsu nói: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy”, bởi vì chúng ta được ơn nhận biết Đức Giêsu Nazareth là Đức Kitô, Con Thiên Hằng Sống và Ngôi Lời nhập thể. Đôi mắt có phúc là đôi mắt nhận biết Đức Giêsu Kitô; và đôi mắt nhận biết Đức Giêsu Kitô là đôi mắt sống đúng với ơn gọi của mình, sống trong chân lý và tình yêu.
Cũng vậy đối với đôi tai của chúng ta: đôi tai của chúng ta được ban cho, có ơn gọi không phải là nghe tiếng động hay âm thanh đơn thuần, nhưng là nghe ra sự hài hòa của âm thanh, nghe được giai điệu, kết cấu của âm thanh, truyền đạt cho chúng ta một ý nghĩa, một sứ điệp, truyền đạt cho chúng ta Ngôi Lời, bởi vì “Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành” (Ga 1,3 và St 1).
Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm. (Tv 19, 2).
Thế mà ý nghĩa và sứ điệp, được tạo ra bởi sự liên kết hài hòa theo quy luật giữa các âm thanh, thì hoàn toàn thinh lặng, không có tiếng động. Thiên Chúa nói với con người qua rất nhiều lời nói: lời trong Kinh Thánh, lời từ các chứng nhân của Thiên Chúa, nhưng chính Đức Giêsu Nazareth, Ngôi Lời Thiên Chúa làm nên sự hợp nhất của những lời nói cụ thể này. Như thế, Ngôi Lời không làm cho bất cứ đôi tai nào rung lên bằng âm thanh vật lý, Ngôi Lời chỉ được thốt lên và chỉ được nghe trong thinh lặng của tâm hồn. Thiên Chúa ngỏ sự thinh lặng của Ngôi Lời cho người biết lắng nghe:
Không trung loan báo việc tay Người làm. Ngày qua mách bảo cho ngày tới, đêm này kể lại với đêm kia. Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh, mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển. (Tv 19, 4-5)
Phúc cho những đôi tai biết lắng nghe tiếng Chúa trong sự thinh lặng của tâm hồn, biết nghe ra tiếng nói của Thiên Chúa trong tiếng thì thầm của lương tâm, trong những biến cố đời thường, và trong những lời rao giảng của Giáo Hội.
Hôm nay, mừng lễ Thánh Gioakim và Anna, chúng ta được mời gọi chiêm ngưỡng không chỉ sự thánh thiện của các Ngài, mà còn cả linh đạo của thử thách, của lòng tin kiên trì, và trên hết, là phúc thật của đôi mắt và đôi tai thiêng liêng. Các Ngài, trong sự khiêm nhường và kiên nhẫn, đã được Chúa ban ơn để nhìn thấy và nghe được những điều vĩ đại nhất: sự ra đời của Đức Maria và lời tiên báo về Đấng Cứu Thế.
Chúng ta cũng được mời gọi nhìn nhận những ơn huệ lớn lao mà mình đang có: đôi mắt và đôi tai thể lý, và quan trọng hơn, đôi mắt và đôi tai của đức tin. Hãy xin Chúa mở mắt chúng ta để thấy Người trong mọi sự, thấy Người trong anh chị em, đặc biệt là những người yếu đuối, đau khổ. Hãy xin Chúa mở tai chúng ta để nghe Lời Người trong sự thinh lặng, nghe tiếng Người mời gọi sám hối, yêu thương và phục vụ.
Xin Chúa củng cố trong chúng con niềm hy vọng. Xin cho chúng con biết kiên trì trong mọi thử thách, gian nan, đau khổ, giống như Thánh Gioakim và Anna. Và giữa những vất vả, lao nhọc của cuộc đời, xin cho chúng con tìm thấy được niềm vui và nhận ra được thánh ý của Chúa, để lúc nào môi miệng chúng con cũng tràn ngập những lời ca tụng tạ ơn.
Lạy Thánh Gioakim và Thánh Anna, xin phù trợ chúng con, xin giúp chúng con noi gương các ngài sống một đời khiêm nhường, kiên trì trong đức tin, và biết nhận ra, trân trọng, và loan truyền những ơn phúc lớn lao mà Thiên Chúa đã ban cho chúng con. Amen.
Lm. Anmai, CSsR