ĐỨC TRINH NỮ MA-RI-A, MẸ HỘI THÁNH Khi phụng vụ…

10 bài suy niệm Lời Chúa Chúa Nhật Tuần VI Phục Sinh (thêm của Lm. Anmai, CSsR)
Yêu Lời và giữ Lời – Lm. Anmai, CSsR
Là con người, ai cũng vậy, khi người thân mình đi xa thì thường để lại cho những người còn ở lại những lời trối trăn, những lời căn dặn. Những lời ấy càng có ý nghĩa, càng sâu sắc hơn khi người đó chính là người thương của mình, người mà mình yêu quý nhất.
Trong tâm tình đó, hôm nay, chúng ta được nghe Thánh Gioan thuật lại tâm tình hay nói đúng hơn là những lời trối trăn của Chúa Giêsu. Nơi Thánh Gioan, phải nói là có một tình cảm hết sức tuyệt vời với Thầy. Thánh Gioan đã ghi lại toàn bộ “diễn từ biệt ly”. Diễn từ biệt ly gói ghém tâm tình của Thầy Chí Thánh Giêsu.
Trong tâm tình ấy, Chúa muốn các môn đệ Chúa Giêsu phải sống yêu thương như thế nào đối với nhau (13,34)? đối với Chúa Giêsu (14,15)? Tại sao “yêu thương” được Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại tới 4 lần (cc 15.21.23.24)?
Các môn đệ phải sống yêu thương với nhau như Đức Giêsu đã yêu thương họ (13,34); họ phải yêu thương Chúa Giêsu bằng cách tuân giữ các giới răn của Ngài (14,15). Chúa Giêsu 4 lần nhắc tới yêu thương vì đây là điều răn quan trọng nhất và tiêu biểu nhất của Ngài.
Trong câu 31, Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta thế nào? Gương yêu thương của Chúa Giêsu: làm đúng như ý Chúa Cha.
Với kinh nghiệm hết sức thực tế trong lịch sử cứu độ, qua lịch sử cứu độ chúng ta thấy phảng phất hình ảnh của những con người không tuân hành thánh ý của Chúa Cha.
Khởi đầu Thánh Kinh, ta sẽ bắt gặp hình ảnh của người phụ nữ hết sức quen thuộc. Người nữ ấy có tên là Eva, bà là mẹ của chúng sinh. Mẹ của chúng sinh ấy nhưng bà có đủ ba đức tính để làm nên tội lỗi: thích ăn, nhẹ dạ và… tò mò. Trái Cấm ngon và kỳ diệu lắm! Đã là con người, ai chẳng muốn được ăn ngon? Và nếu như cái sự ăn đó sẽ đem đến cái vĩ hoàng tương tự như Thiên Chúa thì lại càng đáng để thử. Thích thử để biết cũng là một thuộc tính của cả loài người…
Vì muốn bằng Thiên Chúa nên Eva đã giơ tay hái trái cấm. Không chỉ mình mình ăn nhưng Evà còn “mời” chồng mình ăn nữa.
Kế tiếp, chắc chúng ta khó quên hình ảnh của một vị vua lừng danh đó là vua Đavít. Đavít: một kẻ phản bội, một kẻ dối trá, một người phạm tội ngoại tình, một tay giết người. Phạm tội ngoại tình với Bát Sêva. Đavít đã:
Giết Urigia chồng của Bát Sêva
Bất tuân lệnh Chúa khi thực hiện việc kiểm tra dân số
Không có thái độ cương quyết với các người con của mình
Cũng có người này người kia đến nhắc nhở nhưng Đavít đã bỏ ngoài tai những lời răn đe ấy. Vì bỏ ngoài tai lời của Thiên Chúa nên Đavít đã phạm tội.
Sang đến Tân Ước, chúng ta làm sao quên được hình ảnh của bà mẹ ông Giacôbê và Gioan. Đi theo Thầy, sống gần Thầy đấy nhưng mà lại xin chỗ nhất chỗ nhì.
Thánh Phêrô bi đát cũng chẳng kém. Khi Thầy báo trước con đường khổ nạn lên Giêrusalem thì lại cản Thầy. Kinh khủng hơn nữa là đã chối Thầy bây bẩy vì không nhớ lời Thầy dặn trong bàn tiệc. Thật sự ra cũng nhớ lời Thầy ấy nhưng mà yếu đuối, nhưng mà bị ngăn cản bởi con người mỏng dòn nên Phêrô đã chối Thầy.
Lược qua những hình ảnh, những con người hết sức thực tế trong cuộc sống, trong Thánh Kinh đã vì bất tuân, đã vì không nghe lời Chúa nên đã sa ngã, đã phạm tội.
Lời Chúa hết sức cần thiết cho cuộc đời mỗi người. Các thánh tông đồ tuy yếu đuối, tuy vấp ngã ấy nhưng sau khi có ơn Thánh của Chúa Phục Sinh cuộc đời của các tông đồ đã thay đổi. Các môn đệ đã mạnh dạn lên đường rao giảng Tin mừng. Không chỉ rao giảng một cách bình thường nhưng các ông rao giảng một cách mạnh mẽ: Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Mô-sê, thì anh em không thể được cứu độ. Các ông Phao-lô và ông Ba-na-ba chống đối và tranh luận khá gay go với họ.
Không dừng lại ở chuyện gay go mà các ông còn quyết định cử ông Phao-lô, ông Ba-na-ba và một vài người khác lên Giê-ru-sa-lem gặp các Tông Đồ và các kỳ mục, để bàn về vấn đề đang tranh luận trong dân. Sau đó các Tông Đồ và các kỳ mục, cùng với toàn thể Hội Thánh, quyết định chọn mấy người trong các ông, để phái đi An-ti-ô-khi-a với ông Phao-lô và ông Ba-na-ba. Đó là ông Giu-đa, biệt danh là Ba-sa-ba, và ông Xi-la, những người có uy tín trong Hội Thánh. Các ông trao cho phái đoàn bức thư sau:
“Chúng tôi nghe biết có một số người trong chúng tôi, không được chúng tôi uỷ nhiệm, mà lại đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang. Vì thế, chúng tôi đã đồng tâm nhất trí quyết định chọn một số đại biểu, và phái họ đến với anh em, cùng với những người anh em thân mến của chúng tôi là ông Ba-na-ba và ông Phao-lô, những người đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vậy chúng tôi cử ông Giu-đa và ông Xi-la đến trình bày trực tiếp những điều viết sau đây: Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh.”
Các tông đồ đã gửi đến cho họ những người cống hiến cuộc đời vì danh Chúa Giêsu. Những tông đồ này trước đây cũng nhát đảm nhưng chắc có lẽ nhớ lại lời của Thầy trong bàn Tiệc Ly chiều thứ Năm Thánh nên các ông can đảm để loan báo Tin mừng.
Lời của Thầy ắt hẳn vẫn còn văng vẳng bên tai của các tông đồ: Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy.
Đó là cách biểu lộ duy nhất mà Thiên Chúa đã quyết định thể hiện: người đến cư ngụ giữa những kẻ tiếp đón Người và tin tưởng nơi Người. Nói cách khác, Người chỉ được người ta nhận ra Người “hiện diện”, nhờ những kẻ yêu mến Người… Tình yêu không cưỡng chế ai, không thúc ép ai.
Cảm nghiệm về một sự hiện diện thân mật nào đó của một người, tuy “vắng mặt” về thể lý, chúng ta cũng có thể nhận ra trong nhung tình yêu nhân loại ta, nếu chúng là chân thực: bất giác chúng ta sẽ nhận thấy đang khi nói, trong một cuộc đối thoại nội tâm, với người yêu, với bạn hữu, con cái, hôn phu, người chồng.
Đó là sự hiện diện của kẻ vắng mặt! Đó là cảm nghiệm mà chỉ có kẻ yêu thương mới nhận ra.
Chúng ta vẫn thường phàn nàn về sự vắng mặt của Thiên Chúa, về thái độ im lặng của Người. Người tín hữu luôn đụng chạm với lời thách đố của kẻ vô thần:…”Thiên Chúa của bạn ở đâu?” (Tv 42,4). Nhưng ngày nay, câu chất vấn đó có chiều hướng đi tới một chối từ Giáo hội, phủ nhận nếp sống cộng đoàn của Giáo hội: người ta cảm phục Chúa Giêsu như một mô hình của nhân loại… người ta không chống đối Người điều gì… nhưng người ta gạt Người sang một bên, như thể không có Người… bằng cách khỏa lấp qua một lời tuyên bố quá dễ dãi: “Tôi tin nhưng không hành đạo”. Do đó, rõ ràng là có một ranh giới thực sự giữa “người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu với mọi người khác, dù họ rất có cảm tình với nhân vật Giêsu Nadarét. Chúa Giêsu mạnh dạn quả quyết rằng, Người không chỉ là một kẻ chết, dù là tuyệt vời, của lịch sử xa xưa… cũng không chỉ là mẫu người đẹp mà sứ điệp có thể làm người ta phải suy nghĩ… Nhưng Người là một con người đang sống đang hoạt động, hôm nay vẫn còn hiển nhiên. Nhờ sự Phục sinh, Đức Giêsu Nadarét, con người lịch sử, đã bước vào thế giới xác định của Thiên Chúa: điều đó minh chúng. Người cũng trở nên kẻ đồng thời với mọi người.
Chúa Giêsu còn nói thêm: Ai yêu mến Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Chúa Giêsu quả quyết, từ giờ trở đi Người đang hiện diện nhờ những kẻ yêu mến Người, nhờ các tín hữu đích thực mà Người đang cư ngụ trong họ.
Khi Chúa Giêsu tuyên bố những lời đó, quả thực chỉ còn ít giờ nữa là Người sẽ phải chết. Người là Đền thờ mới, được dựng lại nội trong ba ngày (Ga 2,19-22), Đền thờ mà ở đó người Do Thái thường cảm thấy một sự hiện diện thực sự của Thiên Chúa. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu còn đi xa hơn. Người dám quả quyết rằng, kể từ’ lúc Người ra đi, thì sự hiện diện không diễn tả thành lời này, chắc chắn bị che giấu, nhưng sẽ được bảo chứng nhờ các Kitô hữu.
Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy… Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.
Giữa những người yêu thương nhau, cần có sự lắng nghe, đối thoại, nói năng, trao đổi. Trong tình yêu của chúng ta, không cố gì tệ hại hơn là “không biết lắng nghe”, không chịu nói năng. Ở đây Chúa Giêsu mạc khải cho ta một trong những chìa khóa mở tới đời sống Kitô hữu đích thực: Suy niệm Lời Chúa, như một dấu chỉ của sự Hiện Diện. Đó là một sự kiện. Chúng ta không có sự hiện diện thể lý hữu hình của Chúa Giêsu, nhưng đối với kẻ yêu mến Người, thì thật là kỳ diệu, họ đã nhận được tư tưởng, lời nói của Người. Chúng ta cần ghi nhận, Chúa Giêsu không chỉ nói đến một lời được đón nhận trong tâm trí, mà là một lời ta phải tuân giữ một lời phải đưa ra thực hành, một lời nhờ luôn “sống động” sẽ giúp kẻ ban lời cũng thực sự hiện diện. Sự hiện diện của Đức Kitô Phục sinh, sống động… có thể được “nhận biết” cách cụ thể (điều đó hẳn là thế được!) trong đời sống của các môn đệ đích thực.
Cũng như Đức Giêsu Nadarét là nơi thể hiện sự hiện diện và lời của Chúa Cha (“Lời anh em nghe thấy không phải là của Thầy”), cũng vậy từ giờ trở đi, các Kitô hữu, Giáo hội chính là nơi đó. Thật là trách nhiệm lớn lao.
Nghe và giữ lời Chúa hay không là quyền tự do của mỗi kitô hữu.
Lm. Anmai, CSsR
YÊU MẾN THẦY CHƯA ?
AI yêu mến Thầy là giữ lời Thầy. Tình yêu đích thực không chỉ là cảm xúc thăng hoa, mà chính là hành động cụ thể, là sự vâng phục và chu toàn lời dạy của Người. Chúng ta thấy trong gia đình, mẹ cha hy sinh đến kiệt sức để con cái được ấm no, trưởng thành; họ không ngừng bươn trải, nhịn đói kham khổ để lo cho tương lai con. Thánh Augustinô từng nói: “Mức độ của tình yêu là yêu không mức độ.” Khi tình yêu không đo được bằng lời nói, mà hiển hiện trong từng hy sinh thầm lặng, thì tình yêu đối với Thiên Chúa cũng phải được biểu lộ qua sự tuân giữ Lời Ngài một cách kiên trung.
Lời Chúa ngày hôm nay mời gọi chúng ta suy ngẫm: muốn yêu mến Thầy, phải giữ lời Thầy. Lời ấy không phải là những điều khắc nghiệt, mà là ngọn đèn soi đường, như tác giả Thánh vịnh đã khẳng định: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105). Khi đặt Lời Chúa làm nền tảng cho đời sống, chúng ta sẽ không vấp ngã giữa đường đời mịt mờ, mà bước đi vững vàng trong chân lý và tự do đích thực. Tự do đó không phải là làm theo ý mình, nhưng là đón nhận ý Chúa, để mỗi ngày cuộc đời chúng ta được vẽ nên theo bàn tay yêu thương của Đấng Tạo Hóa.
Con người chúng ta chỉ là tạo vật, và mọi tạo vật chỉ có giá trị khi thực hiện đúng mục đích của Đấng tạo dựng. Sống theo ý Chúa không bó buộc, mà là trở về với căn cội tự do, nơi mỗi cử chỉ, mỗi quyết định của ta hòa điệu với thánh ý Thiên Chúa. Chạy theo ý riêng chỉ mang đến phiền muộn, nô lệ đam mê và những sợ hãi vô hình. Khi nghe lời Chúa và thi hành lời Chúa, chúng ta nhận ra đâu là chân lý, đâu là con đường dẫn đến sự sống. Nhờ đó, chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi, khỏi tính ích kỷ, và xưa kia là tôi tớ tội lỗi, giờ đây trở nên con cái tự do.
Ở lại trong Lời Chúa là chìa khóa mở ra cánh cửa Nước Trời. Người môn đệ của Chúa chẳng những lắng nghe, mà còn sống lời Ngài. Đó là thái độ của đứa con ngoan ngoãn, của người tôi trung trung tín. Khi Chúa bảo “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy… và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy,” chúng ta hiểu rằng, vâng giữ Lời Chúa không chỉ là luật lệ, mà chính là mối quan hệ sống động với Ba Ngôi Thiên Chúa. Khi Ba Ngôi ngự trong lòng, mỗi tâm hồn trở thành đền thờ thiêng liêng, phát sinh yêu thương và thánh thiện.
Từ ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội, Thánh Thần đã ngự trong chúng ta, soi sáng và biến đổi. Nhưng để Thánh Thần hoạt động trọn vẹn, chúng ta phải hiệp thông mật thiết với Lời Chúa. Sống theo Lời Ngài, chúng ta không còn sợ hãi trước thử thách, vì biết rằng Đấng Tối Cao cùng đồng hành. Những lời dèm pha, khen chê, sướng khổ, được mất chỉ là thoáng qua; còn ơn gọi làm con Thiên Chúa là bất diệt.
Trong cuộc sống hằng ngày, tình yêu và sự vâng phục Lời Chúa thể hiện qua từng quyết định nhỏ nhặt. Khi gặp người nghèo khó, chúng ta không quay mặt, nhưng dang rộng tay sẻ chia; khi thương đau giăng phủ, chúng ta không chối bỏ, nhưng kiên nhẫn an ủi; khi cám dỗ gọi mời, chúng ta không nhượng bộ, nhưng bám chặt Lời Chúa. Đó là những dấu chỉ rõ ràng nhất của lòng yêu mến.
Hãy đặt mình trước gương mẫu Đức Giêsu. Người đã không ngại vác thập giá, đã hằng tuân giữ thánh ý Chúa Cha cho đến trọn cuộc đời. Trong vườn Gethsemani, Người đã thì thầm: “Xin không theo ý Con, nhưng theo ý Cha.” Đó là đỉnh cao của tình yêu trao hiến. Chúng ta, dù nhỏ bé, cũng được mời gọi bước theo con đường ấy: từ bỏ cái tôi ích kỷ, từ bỏ danh vọng, từ bỏ hưởng thụ; để trái tim dệt nên những hành động phục vụ, chia sẻ và hy sinh.
Mỗi lần lắng nghe Lời Chúa trong Thánh lễ, chúng ta được mời gọi tái cam kết. Không phải chỉ nghe cho vui, mà nghe để thực hành. Lời Thầy vang lên hôm nay không phải là nghe rồi quên, mà là đập vào tim, làm đổi mới tâm hồn, soi sáng trí khôn, thắp lên ngọn lửa nhiệt huyết phục vụ. Khi giữ Lời Thầy, chúng ta trở thành muối men thanh tẩy cuộc đời, đem ánh sáng Phúc Âm đến với thế gian.
Anh chị em thân mến, tình yêu lớn lao nhất là hy sinh mạng sống vì người mình yêu (x. Ga 15,13). Vâng giữ Lời Chúa đòi hỏi từ bỏ, đòi hỏi thập giá, nhưng chính qua đó, chúng ta khám phá ý nghĩa đích thực của tình yêu. Tình yêu không thỏa hiệp với giả dối, không nhượng bộ với tội lỗi, và không lùi bước trước bất công. Thật vậy, “yêu không mức độ” là dám sống chết cho chân lý, dám vượt qua mọi giới hạn để trở nên dấu chứng sống động của tình thương Thiên Chúa.
Cuối cùng, mỗi ngày chúng ta hãy tự vấn: Tôi đã yêu mến Thầy bằng cách nào hôm nay? Tôi đã giữ lời Thầy chăng? Tôi có lắng nghe, có chiêm niệm và có thực hành Lời Chúa trong từng chọn lựa nhỏ nhất không? Khi trả lời bằng cử chỉ cụ thể: tha thứ thay vì oán giận, phục vụ thay vì thỏa mãn bản thân, trao ban thay vì giữ khư khư, thì chắc chắn Ba Ngôi Thiên Chúa sẽ đoái thương, ngự đến, và biến đổi chúng ta thành những nhịp cầu nối tình yêu giữa trời với trần gian. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
TÌNH YÊU THẬT SỰ LÀ GIỮ LỜI CHÚA
Trong cuộc sống hằng ngày, lời nói và hành động thường song hành để biểu lộ thân tình giữa con người với nhau. Có những khi lời nói không đủ sức nặng để diễn tả hết tâm tư, và chúng ta dùng nét mặt, ánh mắt, cử chỉ… làm cho thông điệp thêm sâu sắc. Tiếng cười, tiếng khóc, tiếng thở dài không chỉ là âm thanh mà còn là “ngôn ngữ” của tâm hồn, giúp người khác phần nào cảm nhận được nỗi niềm trong lòng. Tương tự như vậy, tình yêu không thể được đo đếm bằng con số, cũng không cân đo bằng lời nói sáo rỗng. Người ta không thể nói “Tôi yêu anh một tấn” hay “Tôi mến em dài 100 cây số,” nhưng chỉ cần chứng kiến một người cha vất vả sớm hôm tảo tần để lo cho con, một người mẹ chấp nhận hy sinh ăn đói để con được no ấm, ta liền hiểu tấm lòng bao la như đại dương mà cha mẹ dành cho con cái. Chính vì vậy, thánh Augustinô đã khẳng định: “Mức độ của tình yêu là yêu không mức độ.”
Tình yêu Thiên Chúa cũng cần được chứng tỏ bằng hành động cụ thể. Chúa Giêsu đã nói rõ trong Phúc Âm hôm nay: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy.” Yêu mến Chúa không chỉ là cảm xúc bâng quơ, mà là việc can đảm vâng giữ những điều Người truyền dạy và quảng đại thực thi trong đời sống hằng ngày. Người môn đệ Chúa không thể chỉ thốt lên “Lạy Chúa, con yêu Chúa” mà rồi lại lơ là việc cầu nguyện, bỏ quên Lời Chúa chẳng một lần đào sâu suy niệm; càng không thể nói “Con mến Chúa biết bao” trong khi lương tâm vẫn dửng dưng trước cảnh khổ đau của anh em.
Khi yêu mến ai, ta luôn lưu tâm đến ý muốn của người ấy, cố gắng làm đẹp lòng bằng cách thực thi nhanh chóng những điều họ mong ước. Đôi bạn trẻ mới quen nhau, chỉ cần thoảng thấy nét buồn trên môi người kia, họ sẽ tìm mọi cách để mang lại niềm vui; một ánh mắt ngại ngùng cũng đủ làm khởi lên biết bao hành động dịu dàng. Ấy vậy, nếu chúng ta thật lòng yêu mến Chúa Giêsu, chúng ta sẽ lưu ý từng cử chỉ, từng lời Ngài dạy – dù là trong giao tiếp, trong công việc, hay trong cách chúng ta đối xử với tha nhân – và bằng mọi giá thực thi cho đúng như Lời Chúa.
Hơn bất cứ tình yêu trần thế nào, tình yêu dành cho Thiên Chúa cao cả hơn khi dẫn đưa chúng ta vào thân mật với Ba Ngôi Thiên Chúa. Nếu chúng ta giữ Lời Chúa, không chỉ mình Đức Giêsu hài lòng, nhưng chính Chúa Cha cũng sẽ yêu mến người ấy, và Đấng Thầy sẽ đến, ở trong tâm hồn chúng ta. Suy niệm thật sâu câu này cũng là dịp để chúng ta nhận ra hạnh phúc vô song: được Thiên Chúa Ba Ngôi ngự nơi tâm hồn, biến chúng ta thành đền thờ sống động, nơi Ngài hiện diện và hành động.
Thế nhưng, sống theo Lời Chúa không phải lúc nào cũng dễ dàng trong một xã hội thực dụng, nơi người ta thường trọng hình thức hơn bản chất, trọng lợi ích hơn tình thương. Chúng ta dễ bị lôi cuốn vào vòng xoáy danh lợi, tiền tài, đến nỗi quên mất bổn phận đối với gia đình, cộng đoàn và nhất là đối với Thiên Chúa. Lời Chúa như ngọn đèn soi phương hướng, nhưng nếu chúng ta không giữ lấy, đèn sẽ tắt, chúng ta sẽ đi lạc giữa màn đêm của vật chất và nghi ngại.
Vì thế, mỗi ngày chúng ta cần tự vấn: “Tôi đã giữ lời Chúa như thế nào hôm nay? Tôi có thực sự quan tâm đến Lời Chúa hơn là những tiếng ồn ào của thế gian không?” Sự trung thành với Lời Chúa thể hiện qua thái độ khiêm nhường lắng nghe, qua việc kiên nhẫn cầu nguyện, qua hành động yêu thương cụ thể với anh em lân cận, nhất là những người đang chịu tổn thương, đói khát tình thương.
Nguyện xin Chúa ban thêm nghị lực để chúng ta vượt lên mọi cám dỗ, không chỉ dừng lại ở lời hứa suông mà còn sống Lời Chúa bằng mọi khía cạnh trong đời sống: trong gia đình, nơi làm việc, giữa bạn bè và cộng đoàn. Đó chính là minh chứng rõ nét nhất cho lòng yêu mến Thiên Chúa, khiến Cha Thầy đoái nhìn, và Ba Ngôi quyền năng ngự vào tâm hồn mỗi chúng ta, biến đổi chúng ta nên khí cụ bình an và tình yêu nơi trần thế.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con trái tim sắt đá của Phêrô, lòng can đảm của Phaolô, để chúng con có thể bền bỉ giữ gìn Lời Chúa giữa bao phong ba cuộc đời. Xin cho mỗi ngày chúng con bước theo Lời Chúa với niềm tín thác sâu sắc, để không chỉ chúng con, mà cả những ai gặp gỡ chúng con, cũng nhận ra bóng dáng yêu thương của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Ước gì, mỗi người chúng ta hôm nay không chỉ lắng nghe Lời Chúa, nhưng còn đem Lời ấy ra thực hành, để mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, mỗi việc làm đều phản chiếu tình yêu Thiên Chúa, khiến đền thờ tâm hồn chúng ta luôn tỏa lan hương ngát của ân sủng và bình an. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
BÌNH AN THẬT
Bình an thật là ân ban quý giá nhất mà Chúa Phục Sinh trao tặng cho mỗi người chúng ta. Trên những chuyến xe đường dài, ta thường thấy dòng chữ “Chúc quý khách thượng lộ bình an”, như một lời chúc chân thành từ tài xế dành cho hành khách. Khi người Công giáo treo hình Đức Mẹ với dòng chữ “Nữ Vương ban sự bình an”, hay người Phật tử đặt tượng Phật như lời thầm cầu xin Đức Phật ban cho tâm hồn mình một giây phút an nhiên, đó cũng chỉ là ước mong của con người trước bao bộn bề, lo toan. Trong Hán tự, chữ “bình” gợi lên sự bằng phẳng, đều hòa, còn chữ “an” diễn tả người nữ nằm yên trong nhà – nghĩa là được bảo vệ, được che chở. Kết hợp lại, “bình an” chính là trạng thái tâm hồn thư thái, vững chãi, khác hẳn với “hòa bình” – sự ngưng kết xung đột bên ngoài xã hội. Hòa bình không đồng nghĩa với bình an, bởi có thể không còn chiến tranh nhưng lòng người vẫn rối bời bất an.
Chúa Giêsu Phục Sinh xuất hiện vào ngày thứ nhất trong tuần với lời chúc mở đầu: “Bình an cho anh em!” (Ga 20,19). Đó không chỉ là lời chào xã giao, mà là hồng ân của Đấng Phục Sinh dành tặng các môn đệ đang kinh hoàng sau cuộc Thương Khó. Tin Mừng Gioan và sách Công vụ ghi nhận: mỗi lần Chúa hiện đến, các môn đệ đều đóng then cài cửa vì sợ người Do Thái, nhưng khi Ngài có mặt, nỗi sợ hãi tan biến, thay vào đó là niềm vui, bình an và lòng can đảm để tiếp tục sứ vụ rao giảng Tin Mừng.
Chúa Giêsu nói rõ: “Bình an của Thầy, Thầy ban cho anh em; bình an Thầy ban, không như thế gian ban tặng” (Ga 14,27). Bình an thế gian dựa trên sự ổn định của vật chất, quyền lực hay địa vị, nhưng luôn mong manh. Giàu sang, chức vụ cao sang, sức khỏe dồi dào rồi cũng có ngày lung lay: đêm về sợ trộm, sợ mất chức, sợ bệnh tật. Chỉ có bình an Chúa trao là bình an nội tâm, vượt lên mọi biến động bên ngoài, lúc nào vẫn đầy ắp hy vọng và tin tưởng.
Có một câu chuyện trong triều một vị vua về hai họa sĩ tranh đua tranh giải “bình an”. Một người vẽ cảnh hồ phẳng lặng, ngọn đồi xanh mướt – đẹp nhưng quá hoàn hảo, nhà vua thấy “quá yên tĩnh”. Họa sĩ thứ hai khắc họa thác nước đổ ào ạt, tưởng chừng chẳng thể bình an, nhưng khi nhìn kỹ, nhà vua nhận ra một tổ chim yên bình ấp trứng nép mình sau dòng thác dữ dội. Chính ở đó, giữa hỗn loạn, chim mẹ vẫn bình thản bảo vệ mầm sống. Vị vua tuyên bố: “Đây mới là bình an đích thực!” Bình an không phải là sự im ắng hoàn hảo bên ngoài, mà là trạng thái tâm hồn an vui giữa bão táp cuộc đời.
Thành tố then chốt của bình an là sự công chính và lòng tín thác vào Thiên Chúa. Khi chúng ta đặt trọn niềm tin vào Ngài, “mưu toan lo lắng” được chuyển lên vai Đấng quan phòng. Chúng ta có thể sống bình an ngay giữa xung đột, gian nan, vì “ai tin vào Con thì có sự sống đời đời” (Ga 3,36). Dẫu cơn bão thế gian giăng giăng, Chúa vẫn là tảng đá vững vàng: “Dẫu bao phong ba, lòng con không đổi dời” (Tv 31,6).
Hoa quả của bình an là tình yêu, tha thứ, bao dung, khiêm nhường và nhẫn nại. Khi tâm hồn an bình, chúng ta dễ dàng cảm thông với kẻ gây tổn thương, sẵn sàng tha thứ cho những kẻ vô ơn, thể hiện lòng quảng đại với những ai cần giúp đỡ, như Chúa đã dạy: “Phúc cho ai làm hòa” (Mt 5,9). Bình an thúc giục chúng ta phục vụ tha nhân, như Chúa phục vụ các môn đệ: rửa chân cho họ, trao ban Thánh Thể, và hy sinh trên thập giá.
Trong phụng vụ Thánh Lễ, linh mục cầu chúc: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em”, và nhắc nhở: “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”. Đó không chỉ là nghi thức, mà là trao gửi ân ban và trách nhiệm. Mỗi Kitô hữu được mời gọi trở thành khí cụ bình an, góp phần kiến tạo hòa mục trong gia đình, cộng đoàn, xã hội. Khi chúng ta ngưng lời thị phi, cầm lòng ghen ghét; khi chúng ta công chính trong lời nói và hành động; khi chúng ta can đảm lên tiếng bênh vực sự thật – tất cả đều sinh hoa trái bình an.
Thế giới hôm nay vẫn đang sống trên “lò lửa” của chiến tranh, khủng bố, thiên tai, dịch bệnh. Hòa bình bên ngoài còn xa, lòng người chao đảo, tìm đâu bình an nội tâm? Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn vang vọng lời chúc: “Bình an cho anh em!”, một bình an vượt trên mọi hiểu biết loài người (Pl 4,7). Bình an đó là thông hiệp mật thiết với Thiên Chúa, là chính Chúa ngự lệnh trong tâm hồn chúng ta.
Để cảm nghiệm đầy đủ bình an của Chúa, chúng ta cần canh tân đời sống theo Thần Khí Phục Sinh. Bỏ lại “con người cũ” với đố kỵ, hận thù, tham lam; mặc lấy “con người mới” trong ân sủng, công chính và đạo đức. Mỗi ngày, chúng ta học cầu nguyện như Chúa: “Lạy Cha chúng con…” – mở lòng cho Chúa ngự trị, trao Ngài mọi khổ lo, để tâm hồn trở nên “nơi nghỉ bình an” cho Thiên Chúa.
Ước gì mỗi khi buồn lo sợ hãi, chúng ta lại nghe tiếng vọng từ mồ trống: “Ta đã thắng thế gian” (Ga 16,33), để mạnh dạn bước ra, loan báo Tin Mừng bình an cho thế giới đang khao khát. Khi chứng kiến bất công, hãy làm điều thiện; khi trải qua mất mát, hãy tín thác; khi đối diện thử thách, hãy cầu nguyện và trông cậy. Như chim mẹ vẫn bình an bên tổ ấp trong thác dữ, chúng ta cũng có thể sống bình an giữa phong ba.
Xin Chúa Phục Sinh ban cho chúng ta tâm hồn luôn vững chãi trong bình an, để mỗi lời nói, hành động và cử chỉ đều trở thành chứng tá của Tin Mừng. Khi đó, chúng ta thật sự trở thành những “khí cụ bình an” của Chúa, góp phần tạo dựng xã hội công bằng, yêu thương và hiệp nhất. Và trên hết, nhờ bình an Thiên Chúa, chúng ta biết yêu mến Ngài hơn mọi sự, sống để rao giảng quyền năng Phục Sinh, cho dẫu mọi ngả đường đời còn lắm chông gai, lòng vẫn không xao xuyến, không lo sợ. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
BÌNH AN VÀ SỨ MỆNH XÂY DỰNG HÒA BÌNH
Chúa Nhật thứ sáu Mùa Phục Sinh hôm nay mời gọi chúng ta suy ngẫm sâu xa về lời Chúa Giêsu trao ban: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban bình an của Thầy không như thế gian ban tặng.” Đó không chỉ là một câu chào chúc bình thường, nhưng là một thông điệp mang tính định mệnh, định hướng cho đời sống đức tin của mỗi Kitô hữu. Bình an mà Chúa Giêsu trao ban là quà tặng thiêng liêng, vượt lên trên mọi giới hạn của thế gian; đồng thời Ngài còn ủy thác cho chúng ta một sứ mạng cao cả: xây dựng hòa bình trong chính tâm hồn và lan tỏa đến mọi mối tương quan giữa người với người.
Chữ “bình an” trong ngôn ngữ Việt chỉ trạng thái thảnh thơi, thanh thản nội tâm, khi con người được sống trong niềm tín thác vào Thiên Chúa, không vướng bận ưu tư, sợ hãi. Còn “hòa bình” ám chỉ một trật tự hài hòa trong xã hội, không có xung đột gay gắt giữa cá nhân với cá nhân, dân tộc với dân tộc. Chúa Giêsu minh định rằng bình an của Ngài không phải là thứ hòa bình mong manh, dựa trên thỏa hiệp hay cưỡng ép, mà là một bình an nội tâm vững chắc phát xuất từ tình yêu và quyền năng phục sinh của Ngài. Chỉ khi nội tâm chúng ta được bình an đích thật, thì cộng đồng mới có thể phát triển hòa bình bền vững.
Thế gian tìm kiếm hòa bình bằng cách cân bằng lực lượng, đàm phán chính trị, ký kết hiệp ước, thậm chí bằng thế mạnh quân sự để răn đe. Nhưng lịch sử nhân loại cho thấy các hiệp ước dẫu có ràng buộc bằng pháp lý vẫn có thể bị phá vỡ, còn lực lượng quân sự chẳng mấy chốc lại dẫn đến khủng hoảng mới. Chiến tranh lạnh kết thúc, nhưng xung đột sắc tộc, tranh giành lợi ích vẫn diễn ra khắp nơi. Hòa bình thế gian, vì thế, chỉ là tạm thời, dễ bị lung lay bởi tham vọng, hận thù và ích kỷ.
Trong khi đó, bình an Chúa ban là ân đức thâm sâu, vượt trên khả năng con người. Đó là sự an lòng khi gặp gian nan thử thách, là niềm hy vọng vững vàng khi bị áp bức và bắt bớ, là sức mạnh khởi lên từ mầu nhiệm Phục Sinh. Qua sự vâng phục đến cùng, Chúa Giêsu đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, và bình an của Người trở thành di sản cho các môn đệ. Khi chấp nhận để Thánh Thần hướng dẫn, ta được tham dự vào chính cuộc sống Thiên Chúa Ba Ngôi, và bình an Ngài ban chính là hiệp thông với Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần.
Bình an nội tâm không tự đến nếu ta không từ bỏ những ràng buộc của hận thù, đố kỵ, tham lam và ích kỷ. Khi lòng mình còn ôm giữ oán hờn hay sân giận, trái tim ta không thể cảm nghiệm được bình an đích thực. Vì vậy, sứ mạng xây dựng hòa bình bắt đầu từ việc thanh tẩy nội tâm, từ việc đặt lòng tin tưởng trọn vẹn vào lời hứa của Đức Kitô và quyết tâm sống theo Tin Mừng. Mỗi bước hoán cải, tha thứ, và quảng đại từ bỏ cái tôi ích kỷ góp phần làm cho bình an Chúa lớn lên trong ta.
Tiếp đó, bình an nội tâm được chia sẻ bằng tình yêu cụ thể: tha thứ cho kẻ xúc phạm, giúp đỡ người gặp khó khăn, lắng nghe anh chị em trong gia đình và cộng đoàn. Điều này không chỉ là cử chỉ nhân văn, mà còn là chứng tá đức tin, là cách thức mà Tin Mừng trở nên sống động. Khi người Kitô hữu biết sống bác ái, biết đặt lợi ích của tha nhân ngang hàng với chính mình, hòa bình sẽ lan tỏa mạnh mẽ hơn bất kỳ chiến dịch tuyên truyền hay thỏa thuận ngoại giao nào.
Không chỉ dừng lại ở tầm cá nhân, sứ mạng hòa bình của Kitô hữu còn mở rộng đến cộng đồng rộng lớn: giáo xứ, làng xã, quốc gia và cả khắp thế giới. Lịch sử Giáo Hội đã chứng kiến không ít vị thánh, các tu sĩ và giáo dân dấn thân xây dựng hòa bình qua việc giáo dục, chăm sóc y tế, hoạt động xã hội, và vận động công lý. Những người Ki-tô hữu hôm nay cũng được mời gọi tiếp nối truyền thống ấy, trở thành men và muối giữa lòng xã hội, góp phần đưa bình an Chúa đến với những nơi bất công, nghèo khổ và chịu đau khổ.
Trong một thế giới bị chia rẽ bởi bạo lực, phân biệt chủng tộc, và bất bình đẳng, âm vang lời Chúa Giêsu: “Thầy ban bình an không như thế gian ban tặng” là một lời mời gọi cấp bách. Chúng ta được mời gọi không chỉ im lặng chịu đựng, nhưng can đảm làm chứng cho Tin Mừng bằng việc xây dựng những cây cầu giao hòa: đối thoại với người khác đức tin, làm việc chung cho lợi ích chung, và nhất là, kiên trì cầu nguyện xin Thánh Thần hướng dẫn.
Lời cầu nguyện không phải là thứ lãng phí thời giờ; ngược lại, đó là khí giới quyền năng phá tan mọi cám dỗ tâm hồn. Khi ta kiên trì cầu nguyện xin ơn bình an, con tim ta được thanh luyện, trí khôn được soi sáng, và ý chí được củng cố. Sau cùng, chính Chúa Thánh Thần sẽ biến đổi những tâm hồn cứng rắn thành tâm hồn quảng đại và sẵn sàng làm hòa, đồng thời ban cho ta khát vọng và sáng kiến để thúc đẩy hòa bình cách thiết thực.
Sứ mạng xây dựng hòa bình không phải là công việc một sớm một chiều; đó là lộ trình suốt đời. Trong từng ngày sống, ta gặp nhiều cám dỗ quay trở lại ích kỷ: lời nói nặng nề, cử chỉ lạnh nhạt, hay thái độ thờ ơ. Mỗi lần như thế, hãy nhớ rằng bình an Chúa không phải là sự im lặng hời hợt, mà là sự can đảm gỡ bỏ mọi rào chắn giữa ta và tha nhân. Những cử chỉ nhỏ như một lời xin lỗi chân thành, một cái ôm tha thiết, hay một lời khích lệ đúng lúc có thể là ngọn lửa khơi lên hy vọng cho người khác.
Trong phụng vụ hôm nay, chúng ta lãnh nhận Mình Thánh Chúa như dấu chỉ sâu xa của sự hiệp nhất và bình an. Khi đón nhận Thánh Thể, ta trở thành một thân thể duy nhất với Đức Kitô và hiệp thông với nhau. Chính hiệp thông này là nền tảng của hòa bình: không ai được loại trừ, không ai là ngoại lệ, vì tất cả đều được mời gọi vào mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa.
Kết thúc bài giảng, xin mỗi người chúng ta tự đặt câu hỏi: liệu tôi có thực sự để Chúa chiếm trọn tâm hồn để bình an nội tâm lớn lên? Tôi có sẵn sàng từ bỏ thù hận, ích kỷ để xây dựng hòa bình trong gia đình và cộng đoàn không? Tôi có dấn thân cầu nguyện và hành động cụ thể để mang bình an Chúa đến với những ai đang sống trong bất an, đau khổ và chia rẽ không?
Nguyện xin Chúa Phục Sinh, Đấng đã chiến thắng sự chết, ban cho chúng ta ơn bình an đích thực, và biến đổi mỗi trái tim thành công cụ của hòa bình. Nhờ đó, mỗi ngày sống của chúng ta sẽ trở thành chứng tá sống động cho Tin Mừng Hòa Bình, để thế gian nhận diện được dấu ấn yêu thương của Thiên Chúa giữa muôn vàn bão tố của đời. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
TÌNH ĐÁP TÌNH
Chúa Giêsu đã vượt qua từ cõi chết tới sự sống lại, và đó không chỉ là chiến thắng của sự sống trước cái chết, mà còn là khởi điểm của con đường đức tin được mở ra từ trái tim yêu thương. Con đường ấy không phải xuất phát từ lý trí hay quyền lực trần thế, nhưng từ một tình yêu tận hiến, khi Ngài phó mình cho thập giá, và tiếp tục sống động trong mầu nhiệm phục sinh. Chính tình yêu ấy trở thành hạt nhân cho đời sống đạo của chúng ta. Như Thánh Augustinô đã xác quyết: “Cứ yêu đi, rồi làm”. Tình yêu không chỉ là cảm xúc, mà là động lực thúc đẩy mọi hành động bác ái và vâng giữ. Khi chúng ta bảo tồn tình yêu của Thiên Chúa trong lòng, chúng ta đang giữ lời Thầy truyền: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Cha Thầy cùng Thầy sẽ đến ở lại với người ấy” (Ga 14,23).
Ơn gọi của người Kitô hữu là đáp trả tình yêu đó bằng cả trái tim. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã chọn lựa: “Ơn gọi của con là tình yêu”. Ngay từ máu thịt, dòng máu hoàng gia Albania nơi mẹ Hiền Thánh, cho đến quyền công dân của mẹ tại Ấn Độ, không điều gì mạnh mẽ bằng khi người con của Thiên Chúa trọn vẹn thuộc về Thánh Tâm Chúa Giêsu. Thánh Tâm ấy là nguồn lửa mến và lòng xót thương không bao giờ tắt. Mẹ Têrêxa thành Calcutta, qua Dòng Thừa Sai Bác Ái, đã biến hạt giống tình yêu ấy thành hành động cụ thể, khi bà đi gặp những mảnh đời cùng khổ nhất, để trao ban không chỉ cơm áo, nhưng là sự hiện diện trìu mến của Thiên Chúa. Bà từng nói: “Tôi là người Albania vì dòng máu, là người Ấn Độ vì quyền công dân, nhưng tôi là nữ tu Công giáo vì niềm tin. Từ trái tim, tôi hoàn toàn thuộc về Thánh Tâm Chúa Giêsu.”
Chính tình yêu làm nền tảng cho mọi hành động của Giáo Hội. Khi Thiên Chúa mạc khải danh Ngài với chúng ta, Ngài không dẫn dắt bằng quyền lực, nhưng bằng tình yêu của Ngôi Ba Thiên Chúa. Ngày Chúa Giêsu phải rời khỏi thế gian, Ngài không bỏ mặc các tông đồ, nhưng sai Đấng Bảo Trợ, Thánh Thần, đến để dạy chúng ta mọi điều và ghi khắc trong tâm khảm mỗi người mọi lời dạy của Ngài (Ga 14,26). Nhờ ơn Thánh Thần, Giáo Hội như con tàu vượt biển trần thế, tiếp tục loan báo Tin Mừng, chữa lành những tấm lòng tan vỡ và khơi lên hy vọng bất diệt.
Phong trào Phục Sinh của Chúa không chỉ là biến cố lịch sử đi qua, nhưng là sức sống thấm sâu vào từng lớp linh hồn. Mỗi lần Chúa Giêsu hiện ra, Ngài luôn chúc bình an: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an của Thầy, không như thế gian ban tặng” (Ga 14,27). Sự bình an ấy không phải sự bình an vô cảm, nhưng là bình an của tâm hồn không xao xuyến, không sợ hãi, khi chúng ta đặt trọn niềm tin yêu vào Chúa. Bình an đích thực bắt nguồn từ thiện tâm: tâm từ, tâm bi, tâm hỉ và tâm xả. Tâm từ trừ khử lòng tham và giận dữ, tâm bi xoa dịu nỗi đau, tâm hỉ hoan hỉ với thành công của người khác, và tâm xả buông xuống mọi gian nan ê chề. Khi chúng ta thực hành bốn thái độ này, mảnh hồn sẽ trở nên tĩnh lặng, và bình an Chúa ở trong đó.
Đời sống đạo không tách biệt giữa yêu mến Chúa và yêu mến tha nhân. Chúa Giêsu phán: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy”. Vâng giữ chính là dấu chỉ yêu mến. Trong bầu khí phục sinh, chúng ta nhìn thấy tình yêu đó nơi Mẹ Têrêxa, nơi các vị thánh từng cách riêng thấm nhập Thánh Tâm Chúa Giêsu. Tình yêu không dừng lại ở cảm xúc, nhưng hiện thực hóa trong sự hi sinh và phục vụ. Khi chúng ta bày tỏ yêu thương cho kẻ bé mọn nhất, chúng ta đã yêu thương chính Chúa (Mt 25,40).
Giáo Hội Công giáo, dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, luôn cảnh tỉnh chúng ta không để mình trở thành “tổ chức thương cảm phi chính phủ” mà mất đi tính thần thánh. Như Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nhắc: nếu chúng ta chỉ dừng lại ở công tác xã hội mà quên loan báo Chúa Giêsu Kitô, chúng ta đã lạc đường. Từ cuộc từ chức bất ngờ của Đức Bênêđictô XVI đến tân cử Đức Giáo hoàng Phanxicô, mỗi biến cố đều là ân huệ của Thánh Thần để Giáo Hội tái khám phá cội rễ Tin Mừng, bỏ qua những cám dỗ của thế gian, và gia tăng nhiệt huyết truyền giảng Lời Chúa.
Trong Sách Khải Huyền, Thánh Gioan đã vẽ nên hình ảnh Giêrusalem mới, nơi Thiên Chúa và Con Chiên ngự bên hữu, vinh quang chiếu rạng không cần đến mặt trời hay mặt trăng (Kh 21,23). Đó là thị kiến của bình an vĩnh cửu, đích đến của con đường phục sinh. Đời sống chúng ta hôm nay là hành trình tiến về Nước Trời ấy, thắng vượt cám dỗ tăm tối, và giữ vững hy vọng trước mọi gian nan.
Chúa Giêsu đã sống, đã chết và sống lại vì tình yêu, để tình yêu ấy mãi sống trong mỗi chúng ta. Bình an Ngài trao không theo cách của thế gian, nhưng qua tấm lòng thiện tâm, nơi đức thứ tha và phục vụ. Hãy mở rộng trái tim, đón nhận tình yêu phục sinh, và làm cho thế gian được biến đổi từ trong ra ngoài. Khi chúng ta yêu mến và giữ lời Thầy, Cha Thầy cùng Thầy sẽ đến và ở lại với chúng ta – chính đó là nguồn bình an và hạnh phúc đích thực.
Lm. Anmai, CSsR
ĐÓN NHẬN BÌNH AN
Hôm nay, Chúa nói: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em, Thầy ban bình an của Thầy không như thế gian ban tặng.” Nghe những lời đó, chúng ta chợt nhận ra bình an Chúa ban vượt lên trên mọi ý niệm về yên ổn mà thế gian từng trao tặng. Thế gian có thể trao bình an qua sự vắng lặng của chiến tranh, qua thỏa hiệp tạm thời hay qua thỏa mãn nhu cầu vật chất, nhưng bình an của Chúa lại sâu xa hơn: đó là sự tròn đầy cuộc sống, là ơn gọi nên một với Con Chúa, là mối dây mật thiết kết nối linh hồn chúng ta với Chúa Kitô, Đấng làm cho mọi bất an được tan biến.
Chính Thánh Phaolô đã khẳng định: “Chúa Kitô là sự bình an của chúng ta” (Ep 2,14). Bình an ấy, như một ngọn suối mát lành tuôn chảy từ trái tim Chúa, đã thể hiện rõ rệt nơi cuộc thương khó của Ngài. Khi bước vào vườn Ghết-sê-ma-ni, Chúa Giêsu đầy hoang mang, run sợ trước chén đắng sắp đổ xuống, đã van xin: “Lậy Cha, nếu có thể, xin thay chén này cho Con!” (Mt 26,39). Nhưng sau cùng, trong giây phút lắng nghe thẳm sâu ý Cha và nhận biết tình yêu vô biên của Người, Ngài đã bình an mặc lấy thánh ý, đã can đảm bước vào cuộc thương khó với niềm tín thác trọn vẹn, để rồi chiến thắng tội lỗi và sự chết. Bình an của Chúa không phải là vắng lặng trước khổ đau, nhưng là sự hiện diện của tình yêu cứu độ giữa phong ba thử thách.
Trong đêm tối trên biển hồ, các tông đồ vất vả chèo lái thuyền ngược gió, mệt mỏi và lo sợ, cho đến khi Thầy Giêsu ngự đến, bước đi trên mặt nước, và chỉ với đôi lời: “Ta đây, đừng sợ!” (Mt 14,27), Ngài đã khiến sóng gió tạnh lặng và dẫn đưa các ông đến bến bờ bình an. Cũng vậy, bình an đích thực không phải là không gặp sóng gió, nhưng là có Chúa đồng hành, có Chúa bảo đảm và dẫn dắt ta vượt qua cơn giông bão của đời. Khi cuộc sống ném vào ta bao khổ đau, thất vọng, chúng ta hãy nhìn lên Thầy và ghi nhớ lời an ủi: “Ta đã thắng thế gian” (Ga 16,33).
Hình ảnh em bé tập đi cũng minh chứng cho bình an của Thiên Chúa. Để bé vững bước, mẹ phải buông đôi tay đỡ nâng, cho bé được ngã rồi lại đỡ lấy, trong tình yêu và sự kiên nhẫn. Dẫu bé loạng choạng, nó vẫn bước vì tin cậy nơi mẹ. Cũng thế, bình an Chúa ban là sự tin tưởng trọn vẹn vào tình thương dịu hiền của Ngài: Ngài sẵn sàng đỡ nâng khi ta vấp ngã, nâng ta đứng lên sau thất bại, và dõi theo từng bước hành trình cuộc đời. Khi chúng ta biết phó thác trọn vẹn, không còn nỗi sợ mất mát hay lo âu bám víu vào của cải, thì tâm hồn mới thực sự bình an như em bé yên giấc trong vòng tay âu yếm của mẹ.
Bình an Chúa ban còn gắn liền với việc “giữ lời Thầy”. Chúa nói: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy” (Ga 14,23). Yêu không chỉ là cảm xúc, không chỉ là lời nói suông, mà phải được chứng minh bằng hành động cụ thể: vâng giữ Lời Chúa, sống Lời Chúa, thực hành lòng mến qua việc yêu thương tha nhân. Khi ta tuân phục giới răn của Ngài, khi ta hiến dâng thì giờ, khả năng và tài năng cho người khác, khi ta tha thứ, khi ta phục vụ trong khiêm tốn, chính là ta mang bình an Thiên Chúa xuống trần gian.
Chính trong đời sống thường nhật, bình an của Kitô hữu được thể hiện qua cách chúng ta ứng xử trong gia đình, cộng đoàn và xã hội. Giữa những bất đồng, xung đột, chúng ta là những người kiến tạo hòa bình, bắt đầu từ việc lắng nghe nhau, tôn trọng khác biệt, tha thứ và xây dựng lòng tin. Khi thế giới vẫn còn những cuộc chiến, những đau khổ do tham vọng riêng tư, thì người Kitô hữu được mời gọi làm chứng cho hòa bình của Chúa bằng đời sống không bạo lực, bằng tinh thần hợp tác và chia sẻ. Bình an nội tâm không phải là thụ động trước bất công, nhưng là sức mạnh để đứng lên và đương đầu, để thúc đẩy công lý và bác ái.
Chẳng phải ngẫu nhiên mà Chúa Giêsu trao cho các môn đệ Thánh Thần để ban bình an: “Ta để Thánh Thần lại cho các con, Thánh Thần của Chúa, Đấng an ủi, Đấng Thần Khí sự thật, để Ngài ở cùng các con” (Ga 14,17). Thánh Thần biến đổi con tim nóng nảy thành con tim biết kiên nhẫn, con tim bạo táp thành con tim bình lặng, con tim ích kỷ thành con tim quảng đại. Nhờ Thánh Thần, chúng ta biết yêu thương như Chúa đã yêu, biết phục vụ như Chúa đã phục vụ, và dám hy sinh chính mình để trao ban bình an cho anh em.
Chúng ta cũng nhớ đến lời khuyến dụ của Thánh Phaolô: “Xin đừng làm gì khiến anh em vấp ngã, nhưng trong mọi việc hãy xây dựng anh em lên” (1Cr 10,32-33). Khi mỗi người trong gia đình giáo hội biết sống quảng đại, đặt lợi ích chung lên trên hết, thì bình an của Chúa mới thấm nhuần giữa anh em. Dẫu có khác biệt quan điểm, dẫu có khác biệt hoàn cảnh, chúng ta hãy luôn can đảm chung sức xây dựng cộng đoàn yêu thương, để nơi đây thực sự trở thành bến bờ bình an.
Giữa thế giới đầy bạo động, bất công và sợ hãi, chúng ta được kêu gọi trở thành những “sứ giả hòa bình” (Mt 5,9). Điều này đòi hỏi chúng ta phải mang bình an trong tim, rồi chia sẻ nó cho người khác bằng việc tái thiết các mối quan hệ đổ vỡ, bằng lòng khoan dung và lòng thương xót. Khi ta tha thứ cho kẻ thù, khi ta lên tiếng bênh vực người bị áp bức, khi ta chăm sóc người nghèo khổ, chính là ta làm cho bình an của Thiên Chúa vang vọng khắp muôn nơi.
Và như đứa con yên tâm ngủ trong vòng tay mẹ, chúng ta cũng hãy phó thác mọi sự cho Chúa: tin rằng dù gian nan, dù chống đối, dù bão giông phủ vây, Chúa vẫn có cách của Chúa để đưa chúng ta đến bến bờ bình an vĩnh cửu. Tin vào Chúa, chúng ta không còn nỗi lo về tương lai, vì tương lai đang nằm trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.
Hôm nay, chúng ta hãy mở rộng lòng đón nhận bình an Chúa ban. Xin cho mỗi chúng ta biết bồi dưỡng nơi tâm hồn sự bình an nội tại, để giữa bao đổi thay của cuộc sống, lòng không xao xuyến. Xin cho chúng ta can đảm giữ lời Chúa, để tình yêu mến biến thành hành động, để bình an Thiên Chúa trở thành chứng tá sống động giữa thế gian. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
GIỮ TRỌN LỜI THẦY
Hôm nay, trong niềm vui mừng hân hoan của Mùa Phục Sinh, Giáo Hội dẫn đưa chúng ta đến với Tin Mừng Gioan chương 14, câu 15–21, nơi Chúa Giêsu trao tặng bình an và mời gọi các môn đệ sống trong tình yêu và sự phục vụ vô vị lợi. Tình yêu đích thực mà Chúa Giêsu dạy không phải là một cảm giác êm đềm, nhưng là mối liên kết bền chặt giữa Con Thiên Chúa và những người nhờ Ngài mà nên con cái Chúa.
Chúng ta đọc thấy: “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy; Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy” (Ga 14,23). Tình yêu chân chính đòi hỏi một cam kết sống động, thể hiện qua hành động tuân giữ Lời Chúa và phục vụ tha nhân. Yêu mến Thầy không chỉ dừng ở lời nói, mà được chứng thực bằng đời sống gương mẫu theo gương Đức Kitô, trong tinh thần phục vụ không tính toán thiệt hơn, chứ không phải là một trạng thái yên lặng vô động. Ngài đã rửa chân cho các môn đệ, đón nhận đau khổ trên đường Thương Khó, để cho chúng ta thấy rõ tình yêu hy sinh, khiêm nhường và phục vụ vô vị lợi cao cả như thế nào.
Truyền thống đạo hạnh của Giáo Hội, dù lâu đời đến đâu, vẫn luôn là kho tàng giá trị tốt đẹp khi trung thành bảo vệ phẩm giá thiêng thánh của con người và hòa hợp với Giáo huấn về yêu thương và phục vụ của Đức Kitô. Cha ông chúng ta đã lưu truyền những lễ nghi, kinh nguyện, âm nhạc, thánh ca, gia phong đạo đức, tất cả nhằm giúp cộng đoàn thăng tiến trong đức ái và thánh thiện. Khi chúng ta kế thừa truyền thống ấy, điều quan trọng là luôn xét xem những gì được lưu truyền có thúc đẩy đức bác ái, lòng nhân ái, sự tôn trọng sự sống và phục vụ vô vị lợi hay không.
Trong cơn khát của thế giới hiện đại, rất nhiều “sáng kiến” và “đề nghị” mới mẻ được dâng lên, tỏ ra hấp dẫn, hợp thời và hiệu quả trên bề mặt. Người ta nhấn mạnh lập luận rằng cần thích ứng với hoàn cảnh, tận dụng tiến bộ khoa học, quản trị chuyên nghiệp, và khuyến khích khởi nghiệp sáng tạo. Tuy nhiên, nếu đằng sau những lời hoa mỹ ấy là ý đồ vụ lợi cho một thiểu số, cho phe nhóm hay thậm chí là những hệ tư tưởng khuyến khích ích kỷ, kiêu ngạo, trái nghịch với lòng khiêm nhường và phục vụ của Đức Kitô, thì chúng ta phải thận trọng.
Chúa Giêsu đã dạy: “Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ lời Thầy”. Lời Thầy chính là mạch sống, là tiêu chí để phân biệt đâu là điều đến từ Thiên Chúa hằng sống, đâu là “sáng kiến” nhân danh phục vụ nhưng thực chất làm suy yếu sự sống. Khi chúng ta đón nhận cái mới, hãy đặt nó dưới ánh sáng Lời Chúa và dưới dẫn dắt của Thánh Thần. Nếu sáng kiến đó thực sự cổ võ bác ái, bảo vệ sự sống và truyền cảm hứng phục vụ vô vị lợi, thì đó là dấu chỉ Chúa Thánh Thần đang làm việc. Ngược lại, nếu sáng kiến làm tăng khoảng cách giàu nghèo, tạo ra áp lực cạnh tranh không lành mạnh, hoặc che dấu tham vọng quyền lực, thì đó là dấu hiệu của lửa kiêu ngạo chứ không phải của tình yêu khiêm nhường.
Chúng ta được mời gọi trở về với nền tảng bất biến: giáo huấn của Đức Kitô không bao giờ lỗi thời, bởi vì đó là mạc khải tình yêu và chân lý phát xuất từ Thiên Chúa hằng sống, vượt lên trên mọi biến chuyển của lịch sử. Mọi truyền thống, phong tục, tập quán đều có thể đổi thay để phù hợp với giáo luật yêu thương: bảo vệ sự sống, cổ võ yêu thương chân thành và phục vụ tha thiết. Nhưng bản chất của Tin Mừng không thay đổi: tình yêu không tính toán thiệt hơn, sự phục vụ không cần đòi hỏi đền đáp, và sự khiêm nhường đặt lợi ích kẻ khác cao hơn mình.
Có câu chuyện về một thầy giáo trao đề tài cho học sinh: “Viết một bài luận về giáo huấn của Đức Kitô về bảo vệ sự sống, cổ võ yêu thương chân thành và phục vụ vô vị lợi.” Nhiều em đưa ra những tư tưởng mới lạ, sáng tạo đến mức không ai hiểu; có em viết sâu sắc, nhưng cứ tái diễn cùng những luận điệu cũ. Một bài văn hay là khi kết hợp được cả tính chân thành, chiều sâu Tin Mừng và sự thích ứng khôn ngoan với hoàn cảnh thực tế, không sa vào chủ nghĩa duy lý suông, không lạc vào hiện đại hóa mù quáng, nhưng vẫn trung thành với tình yêu phục vụ của Chúa.
Cộng đoàn thân mến, Chúa Nhật VI Phục Sinh mời gọi chúng ta sống mối hiệp thông mật thiết với Chúa Kitô qua tình yêu và phục vụ. Mỗi ngày, chúng ta hãy tự vấn: liệu cách sống của mình có giữ Lời Chúa, có can đảm phục vụ vô vị lợi, có tôn trọng sự linh thiêng của mọi cuộc đời, và có khiêm nhường trước Thiên Chúa và tha nhân hay không?
Thực hành Lời Chúa không phải là gánh nặng, mà là con đường dẫn đưa ta vào bình an đích thật: “Bình an của Thầy, Thầy ban cho anh em; không như thế gian ban tặng” (Ga 14,27). Bình an ấy không là vắng lặng trước sóng gió, nhưng là nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta có sức mạnh để yêu và phục vụ bất chấp nghịch cảnh.
Anh chị em thân mến, giữa dòng đời thay đổi không ngừng, đừng để mình lạc mất đường. Hãy giữ vững nền tảng Tin Mừng: yêu mến Chúa là tuân giữ Lời Người, phục vụ tha nhân không mong đền đáp, bảo vệ sự sống như bước theo dấu chân Chúa trên trần gian. Khi chúng ta sống như thế, Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy, và chính Chúa Giêsu sẽ ngự vào lòng chúng ta, để chúng ta thực sự trở nên chi thể sống động trong Thân Mình Người.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban Thánh Thần của Chúa để chúng con biết giữ trọn Lời Chúa, can đảm phục vụ trong khiêm nhường và yêu thương vô vị lợi. Xin cho chúng con nhận ra đâu là truyền thống sinh hoa trái đức ái, đâu là sáng kiến đúng đắn phù hợp với Tin Mừng, và luôn biết từ chối bất cứ điều gì xa rời tinh thần phục vụ của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ danh Chúa. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
GIỮ LỜI YÊU
Khi đến “giờ Chúa Giêsu qua khỏi thế gian này để về cùng Đức Chúa Cha” (Ga 13,1), Chúa không ra đi trong im lặng mà trao ban cho chúng con di sản vô giá: nền tảng của đời sống Kitô hữu là Điều răn mới, là tình yêu tự hiến, là sự hiện diện liên tục qua Chúa Thánh Thần và là món quà bình an vượt trần gian.
Chúa đặt bàn chân vào trái đất tội lỗi, bước qua gian truân để rửa chân cho các môn đệ, để dạy cho chúng con bài học phục vụ tuyệt hảo. Qua hành động đó, Người cho thấy: phục vụ không chỉ là việc làm, mà là biểu tượng của tình yêu “hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Tình yêu ấy là “mới” vì chưa từng có: Chúa Giêsu không chỉ dạy lý thuyết, Ngài sống và chết cho tình yêu ấy. Khi trao gươm vào tay chúng con, lời Người vang lên tha thiết: “Các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34), yêu không chỉ bằng lời ca tụng, mà bằng bước chân bước vào gian khổ, bằng hy sinh và bằng sự nhẫn nại. Chính tình yêu tự hiến đó làm cho cộng đoàn tín hữu trở nên dấu chỉ sống động, để thế gian nhận biết chúng ta là môn đệ của Thầy (Ga 13,35).
Yêu mến Thầy không chỉ dừng ở cảm xúc, mà cụ thể hoá bằng việc tuân giữ lời Người: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy” (Ga 14,23). Khi con tim rung lên vì tình yêu, lời Chúa trở thành nhịp đập hằng ngày của cuộc đời. Lời ấy không phải gánh nặng, nhưng là hơi thở, là niềm vui, là sức mạnh. Đó là mối tương quan thân mật: khi tuân giữ, chúng ta tôn trọng Thầy, và qua đó Thầy hiện diện nơi chúng ta như Đền thờ sống động. “Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy” – Lời hứa ấy, không phải là ẩn dụ, mà là thực tại huyền nhiệm: Thiên Chúa ngự giữa chúng ta, trong lòng tin và trong sự hiệp thông với chính Ngài (Ep 3,17).
Đâu phải ngẫu nhiên mà sau khi hoàn tất sứ vụ, Chúa Giêsu phán cùng Vua Đa-vít: “Đây là nơi Ta nghỉ ngơi đời đời mãi mãi, Ta sẽ ngự tại đó vì Ta muốn!” (Tv 131,14). Nơi Thiên Chúa ở không phải là đền thánh xây bằng gạch đá, mà là tâm hồn tín hữu đã được thanh tẩy bởi Thần Khí. Mỗi trái tim được mở ra cho tình yêu, được biến đổi bởi Lời và Thánh Thể, trở thành cung điện thiêng liêng, đích thực Thiên Chúa ngự vào ở.
Và cũng trong giờ phút chia ly, Chúa mạc khải cho các môn đệ về Đấng Phù Trợ: “Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy: chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói” (Ga 14,26). Chúa Thánh Thần không chỉ là ký ức sinh động về lời Chúa, mà là Ánh sáng soi dẫn bước chúng ta trong mọi hoàn cảnh. Khi chúng ta cảm thấy lạc lõng, Người an ủi; khi khắc khoải, Người khích lệ; khi mệt mỏi, Người ban sức mới. Nhờ Người, mỗi Kitô hữu không còn đi lạc trong đêm tối, nhưng luôn có Đấng Thánh an bài đường đi, để mỗi bước chân kết hợp mật thiết với Con Thiên Chúa.
Trước khi rời xa, Chúa ban cho các ông “bình an” thay vì lời chúc an toàn trần thế: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con” (Ga 14,27). Đó không phải là bình an thinh lặng vô cảm, mà là sự bình an rực rỡ ngay giữa phong ba cuộc đời. Bình an Kitô hữu là ơn Chúa phủ lấp mọi bi ai, là hoa trái của đức tin và đức cậy, là cội nguồn vững chắc giữa bão táp. Khi thế gian đổi thay, tình người thay lòng, Chúa ban bình an nội tâm để chúng ta không bị dao động, để chúng ta hiệp nhất trong tình yêu và sứ vụ.
Chúa Giêsu không bỏ mặc các ông trong nỗi cô đơn: “Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi” (Ga 14,27). Lời ấy vang vọng qua bao thế hệ tín hữu, nhắc nhở chúng ta can đảm sống đức tin, dù đôi khi bị bách hại. Sợ hãi xuất phát từ thiếu niềm tin; khi chúng ta đặt trọn niềm phó thác vào Đức Kitô, mọi khắc khoải tan biến như sương mai trước ánh dương. Sự an nghỉ của tâm hồn nằm trong việc để Chúa cầm lái: trong giây phút yếu mềm, chỉ cần kêu xin, Người hiện đến để nâng đỡ.
Chúng ta tự hỏi: liệu cuộc sống này còn gì đáng sợ, khi biết rằng Đấng Tạo Hóa đang đồng hành? Khi đối diện với những biến cố: mất mát, đau thương, thất vọng, chúng ta có quyền xao xuyến? Không! Vì Thiên Chúa đã phán cùng chúng ta: “Ta ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Thiên Chúa không vắng mặt trước gian nan, mà chính trong đó, Ngài khéo dệt nên tấm thảm ân sủng, để chúng ta lớn lên trong đức ái và sự kiên trì.
Vậy, giữa bộn bề thế sự, đừng để lòng xôn xao trước những bất ổn của đời trần. Ðừng để tình huynh đệ lung lay vì lời thị phi, vì lòng người thay đổi. Hãy phó thác như trẻ thơ, đặt trọn niềm tin nơi Cha trên trời. Bởi chỉ trong Ngài, tâm hồn mới tìm thấy bến bờ bình an vĩnh cửu. Khi chúng ta “tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1), từng bước đi ta thực hiện được nâng đỡ bởi tình yêu và quyền năng của Người.
Xin cho mỗi lần đọc lại lời Chúa hôm nay, chúng ta thêm ơn biến đổi: để lời Chúa không còn là âm vang xa lạ, nhưng là hơi thở, là nhịp đập của tâm hồn. Khi được Chúa Giêsu ngự trong lòng nhờ đức tin (Ep 3,17), mỗi hành động yêu thương, mỗi lời nói chân thành, mỗi hy sinh âm thầm đều trở thành ngôn ngữ của Tình Yêu Vượt Cao.
Ước gì chúng ta cảm nhận được sự hiện diện mầu nhiệm của Chúa Thánh Thần trong từng giây phút: khi đọc Kinh Thánh, khi dâng lễ, khi hỗ trợ người đau khổ. Chính Người sẽ nhắc nhớ lời Chúa, soi đường thâu nhập Lời ấy vào thực tế cuộc sống. Nhờ đó, khi ra khỏi nhà thờ, chúng ta không mang theo mình nỗi sợ hãi thế gian, nhưng mang bình an đến từng mái ấm, từng cơ quan, từng trái tim cần được chữa lành.
Nếu Chúa Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống (Ga 14,6), còn điều gì khiến chúng ta chùn chân? Khi ký thác vào Ngài, mọi gánh nặng thất vọng, mọi mối quan hệ đổ vỡ, mọi ngày tăm tối đều trở nên ánh sáng hy vọng. Hãy tin vào Cha của Chúa Giêsu, Cha chúng ta, và tín thác trọn vẹn nơi Con của Ngài.
Cuối cùng, xin cho lời Chúa hôm nay không chỉ khắc sâu nơi tâm khảm, nhưng trở thành hành trình nội tâm, nơi mỗi bước chân của chúng ta là dấu ấn yêu thương. Dẫu còn muôn trùng sóng gió, chúng ta vẫn nguyện giữ vững lời di chúc của Thầy: yêu thương, tuân giữ Lời, đón nhận Thánh Thần, và sống trong bình an của Đức Kitô. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
CHÚA BAN CHO TA TÌNH YÊU VÀ LỜI NGÀI ĐỂ ĐI TRONG SỰ BÌNH AN
Anh chị em thân mến, hôm nay Tin Mừng trình bày cho chúng ta khúc quanh quyết định nhất trong sứ vụ của Chúa Giêsu: “Giờ” Ngài phải lìa bỏ thế gian này để về với Cha. Đó là cuộc chia ly mà các môn đệ không thể nào hiểu nổi, vì lòng họ luôn nghĩ đến một Đấng quyền năng, thống trị chứ không phải một Đấng sẵn sàng hiến mạng sống. Thế nhưng chính khoảnh khắc “Giờ” ấy mới hé mở cho chúng ta chân dung của Thiên Chúa thật là Đấng Tình Yêu: không che giấu, không áp đặt, nhưng trao ban chính mạng sống mình để gắn kết con người với Thiên Chúa.
Sứ vụ của Chúa Giêsu được bày tỏ bằng hình ảnh sâu sắc: Ngài ở trong Cha và Cha ở trong Ngài; Đấng Tối Cao và tạo vật trở thành một trong tương quan yêu thương. Từ đó, chúng ta học được rằng đời sống Kitô hữu không phải là chuỗi những khuôn mẫu đạo đức khô khan, mà là hành trình sống trong Tình Yêu mà Chúa trao ban. Đi trong tình yêu, nghĩa là đi trong Chúa, chúng ta mới đạt đến cùng đích của cuộc sống: trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, hiệp nhất với Cha qua Con trong Thánh Thần.
Thế nhưng, giữa sự thánh thiêng và phàm nhân luôn tồn tại khoảng cách. Con người suy hèn, dễ chao đảo; biên giới giữa ơn cứu chuộc và tội lỗi tưởng như vĩnh viễn. Chính vì hiểu điều đó, Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta một món quà quý giá: nguồn bình an thật. Không phải bình an “không xáo động” của thế gian, mà bình an “vững chắc” nhờ được nối kết với Thiên Chúa, dù sóng gió thử thách, chúng ta vẫn không nghiêng đổ; dù sợ hãi, chúng ta không hãi hùng; dù hay quên, chúng ta vẫn nhớ và tuân giữ lời Ngài.
Lạy Chúa, lời Ngài vang vọng: “Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời Thầy.” Thế nhưng chúng ta phải nhìn nhận: yêu mến mà không giữ lời, giữ lời mà không yêu mến vẫn còn rất phổ biến nơi chính chúng ta. Giáo hội Âu châu đã công bố những con số đáng buồn về việc tham dự Thánh lễ, và thái độ nửa vời của nhiều tín hữu trước hy lễ. Nếu chúng ta thử đi dạo quanh các thánh đường vào ngày Chúa Nhật, có khi chỉ thấy bóng dáng người vào ra qua loa, tiếng kinh vội vã, lòng trống rỗng. Cộng đoàn xứ đạo không tránh khỏi xung khắc, người ta chỉ đến với Chúa vào mùa lễ hội, mùa vui mà quên vắng vào những ngày thường.
Chuyện bên Tây cũng chính là chuyện của chúng ta ở nơi này. Khi những khái niệm về tự do, hiện đại hoá, khai phóng cá nhân ngày càng được tâng bốc, thì niềm tin, ràng buộc đạo đức dường như trở thành gánh nặng. Thói quen xấu lây lan: dửng dưng với Tin Mừng, lạnh nhạt với Hội Thánh, chỉ trân trọng đạo khi thuận tiện cho cá nhân. Phải chăng nhiều người chấp nhận “bệnh đạo” vì không tìm thấy “vắc xin” tăng sức đề kháng đức tin? Nhưng lạ thay, ngay trong vườn thuốc của Giáo hội, chúng ta có đủ các dược thảo đặc trị: Bí tích Thánh Thể, Bí tích Hòa giải, Lời Chúa, Đức Maria, các thánh bổn mạng… Vậy mà chúng ta vẫn đổ lỗi cho xã hội, cho trào lưu, cho hình thức thay vì trở về cội nguồn của ơn cứu độ.
Hôm nay, ánh mắt của Chúa Giêsu trong Phúc Âm không kết án người phụ nữ ngoại tình, nhưng Ngài nhìn và nói: “Con hãy về đi và đừng phạm tội nữa.” Ánh mắt ấy không chỉ biểu lộ lòng nhân từ, mà còn chứa đựng yêu cầu: tự do của con người phải được đặt trên nền tảng của chân lý và tình yêu. Đó là dấu chỉ của lòng thương xót: không chung thủy với sự tha thứ cho đến khi con người biết quay về và thực thi điều tốt.
Ánh mắt Ngài khi nhìn Phêrô, kẻ đã chối Thầy ba lần, cũng đầy thương mến và thúc giục: “Hãy nuôi dưỡng chiên con của Thầy.” Dường như Ngài hiểu rõ yếu đuối của Phêrô, để sau cùng trao cho sứ vụ chăn dắt đàn chiên. Tình yêu của Ngài không phải sự yếu mềm, nhưng ẩn chứa trong đó là một cam kết: yêu thì phải giữ lời, phục vụ thì phải hy sinh, thà chịu thương tổn còn hơn bỏ rơi con chiên.
Chúng ta cũng thử nhìn vào cuộc sống chung quanh: có người trẻ đang bệnh tật, ánh mắt tha thiết mong có bàn tay chở che; có những tâm hồn lạc lõng khát khao được yêu thương và được dẫn đường. Khi chúng ta thực hành lời Chúa, khi chúng ta đưa bàn tay ra đỡ nâng, khi chúng ta dám sống “yêu mến” và “giữ lời”, chúng ta trở thành sứ giả bình an giữa thế gian đầy xao động.
Lạy Chúa, xin đừng để chúng con chỉ dừng lại ở tình cảm bề mặt, yêu mến ngẫu hứng rồi mau quên lời dạy của Ngài. Xin cho chúng con biết xét mình: chúng con có thể yêu Chúa, nhưng lại dễ bỏ rơi Lời Ngài trong những quyết định của đời thường. Chúng con có thể giữ nghi thức đạo, nhưng trái tim chưa thực sự hoà nhập với Tình Yêu của Ngài.
Thời đại chúng ta thiếu vắng trái tim quảng đại, chúng ta cần “liều thuốc” phòng ngừa sự lãnh đạm: đọc Lời Chúa mỗi ngày, dâng Thánh lễ với tâm tình tạ ơn, đón rước Mình Máu Thánh Chúa, và lãnh nhận bí tích hòa giải để được thanh lọc. Đó chính là cách chúng ta “giữ lời” và “yêu mến” Chúa cách hiệu quả.
Khi đội tượng Ánh Sáng Chúa Kitô, chúng ta được mời gọi trở nên muối mặn, ánh sáng thế gian. Nếu không giữ nguyên vị, muối mất chất; nếu không tỏa sáng, đèn che dưới lượt sân. Thế nên, yêu mến mà không giữ lời là dấu chỉ của hương vị đạo bị phai nhạt, ánh sáng đời sống mất đi nét rạng ngời.
Anh chị em thân mến, Chúa đã đi trọn con đường khổ nạn để mở lối về lại với Cha. Ngài không giấu diếm điều đó, mà công bố trước cho các môn đệ. Chúng ta được mời gọi sống trung thành với lời hứa bí tích Rửa tội, noi gương Ngài: luôn sẵn sàng hy sinh, phục vụ và tuân giữ Lời Cha.
Trong mùa Phục Sinh này, chúng ta hãy để Chúa Thánh Thần dẫn đưa: nghỉ ngơi bên tảng đá Phục Sinh, lắng nghe hơi thở của Thần Khí, rồi bước ra làm chứng cho Chúa giữa thế giới đầy bất an. Bởi chỉ khi đắm mình trong ơn Chúa, chúng ta mới có thể trao ban bình an thật cho những ai ốm đau, lo âu, và cô đơn.
Ước gì mỗi Thánh lễ chầu Mình Thánh, mỗi lần đọc lại đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta lại sống lại bầu khí của “Giờ” Chúa Giêsu, để nhận ra: yêu mến và giữ lời không phải gánh nặng mà chính là sức mạnh, là thuốc giải trọn vẹn cho mọi vết thương tâm hồn và xã hội.
Xin Chúa cho chúng ta can đảm thú nhận yếu đuối, khiêm tốn trở về với Ngài, không chỉ bằng môi miệng mà bằng cả hành động hy sinh, phục vụ. Đó là cách chúng ta loan báo Tin Mừng: bằng chính cuộc sống được biến đổi bởi tình yêu và lòng trung thành với Lời Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn cho chúng con biết yêu mến Thầy bằng cả trái tim, biết giữ lời Thầy trong từng nhịp thở, từng quyết định, để chúng con trở thành chứng nhân sống động, kéo nhiều anh em khác đến cùng Cha. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
BAN BÌNH AN
Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14,27). Chính lời ấy vang vọng trong tâm hồn mỗi tín hữu hôm nay khi chúng ta mừng Chúa sống lại trong Chúa Nhật thứ Sáu Phục sinh. Sự bình an mà Thầy trao tặng không phải là sự im lặng tạm thời của thế gian, nhưng là bình an đích thực, vững chãi, khởi đi từ mầu nhiệm Vượt Qua, từ chính nguồn sống Phục sinh của Chúa.
Khi Chúa Giêsu bị bắt, chịu khổ hình và chết trên thập giá, các Tông đồ chỉ còn biết ẩn mình trong phòng đóng kín cửa, lòng đầy hoang mang và sợ hãi. Họ không thể tin rằng Con Thiên Chúa đã bị sát hại, và rồi tội lỗi nhân loại tưởng chừng đã chinh phục được Thiên Chúa. Nhưng rồi chính Chúa Phục sinh đã đến giữa các ông, nói: “Bình an cho các con!” (Ga 20,19). Các ông tưởng Ngài là ma, nhưng khi nhận ra Chúa thật sống lại, họ được một luồng sinh lực mới thúc đẩy. Từ căn phòng đóng kín, từng vị tông đồ đã mạnh dạn vươn ra, chia nhau mỗi người một ngả, đem Tin mừng phục sinh đến muôn dân. Họ không còn run sợ, không còn lẩn tránh: thánh Phêrô dám rao giảng cho dân Do Thái, thánh Phaolô rao giảng giữa người ngoại; các ông sẵn sàng chịu bách hại, dâng hiến cả mạng sống để bảo vệ tin mừng Phục sinh.
Ngược lại, những Thượng tế và kỳ mục trong dân Do Thái, dù từng thể hiện quyền lực trước Chúa và các môn đệ, lại chẳng tìm thấy bình an nơi mầu nhiệm Phục sinh. Khi nghe tin Chúa sống lại, họ vội vã họp bàn, hối lộ lính canh để tung tin đồn rằng các môn đệ đã đến trộm xác Chúa trong đêm tối, hòng che giấu sự thật (Mt 28,12-15). Sự sợ hãi và bất an đã thúc đẩy họ dùng tiền bạc để mua chuộc lương tâm, một nỗ lực vô ích để chống lại sự thật phục sinh. Ngày hôm nay, họ là tấm gương bi thảm cho những ai để nỗi sợ chi phối, dẫu có quyền lực danh vọng, vẫn chẳng tìm thấy bình an đích thực.
Giáo hội luôn chúc chúng ta “ra đi bình an” mỗi khi Thánh lễ kết thúc, vì qua bàn tiệc Thánh và Lời Chúa được cử hành, chúng ta đã gặp Chúa Phục sinh và nhận được sự bình an thiêng liêng. Thánh lễ không chỉ là nghi thức, nhưng là cuộc gặp gỡ sống động với chính Chúa Giêsu – Đấng đã chiến thắng mồ chôn, sự chết và sự dữ. Khi lãnh nhận bí tích Thánh Thể, chúng ta đón rước thân mình và máu Chúa, để chính Ngài ngự trong lòng, mang lại cho chúng ta bình an nội tâm không thể lay chuyển. Khi lãnh nhận bí tích Hòa giải, linh mục thay mặt Thiên Chúa nói: “Thầy tha tội cho anh em, bình an với anh em,” để chúng ta được ơn thanh tẩy, được tái tạo trong bình an Chúa.
Thế nhưng, chúng ta có ý thức đón nhận bình an ấy chưa? Có khi chúng ta tới nhà thờ để được an ủi, để tâm hồn dịu lại, rồi ra về với bao ưu tư, băn khoăn của cuộc sống thường nhật. Chúng ta quên rằng bình an Chúa ban không phải để cất giữ trong lòng, nhưng để chia sẻ cho gia đình, cho bạn bè, cho xã hội. Bình an mà chúng ta lãnh nhận trong Thánh lễ phải được mang đi khắp nẻo đường, để trở thành dấu chỉ sống động của mầu nhiệm Phục sinh. Khi chúng ta biết tha thứ cho kẻ đã làm hại mình, khi chúng ta sẵn lòng lắng nghe nỗi đau của người khác, khi chúng ta xả mình phục vụ những người nghèo khổ, lúc ấy bình an Phục sinh mới lan tỏa khắp mọi nơi.
Bình an Chúa ban cũng gắn liền với việc vâng giữ Lời Chúa và Giáo hội dạy. Khi chúng ta chăm chú nghe Lời Chúa, khi chúng ta cầu nguyện với Lời Chúa, khi chúng ta thực hành Lời Chúa bằng cách sống yêu thương và bác ái, chúng ta được bình an nội tâm và hạnh phúc thật sự. Ngược lại, bình an thế gian chỉ là tạm bợ, dễ đổi thay trước bất trắc của cuộc đời, thậm chí còn là ngụy trang cho những xung đột âm thầm. Nếu chúng ta bám víu vào của cải, quyền thế hay danh vọng, lòng chúng ta sẽ luôn dao động, không khi nào được vững vàng.
Chúng ta hãy tưởng tượng em bé tập bước: bé loạng choạng, run rẩy, nhưng vẫn cố gắng tiến lên vì biết mẹ luôn dang tay đón đỡ khi ngã. Bình an của Chúa cũng vậy: khi ta bộ hành trên nẻo đường đời, phong ba bão táp không thể tránh khỏi, nhưng có Chúa đồng hành, có Chúa sẵn sàng nâng đỡ, ta không còn e dè từng bước chân. Chúa là Thầy Giêsu Phục sinh, Đấng đã lìa mồ chôn và sống lại; nếu Ngài đã thắng được sự chết, ai có thể làm hại chúng ta? (Rm 8,31).
Xin cho mỗi tín hữu biết noi gương các tông đồ: rời khỏi “phòng đóng kín cửa” của thái độ sống cũ, ra đi loan báo Tin mừng Phục sinh bằng đời sống chứng tá. Đừng để sợ hãi ngăn cản chúng ta rao giảng tình yêu và bình an của Chúa. Dẫu có bị hiểu lầm, dẫu có gặp ngăn trở, chúng ta vẫn can đảm tiến bước, vì Lời Chúa đã phán: “Anh em là ánh sáng thế gian… để người ta thấy việc lành của anh em và tôn vinh Cha anh em trên trời” (Mt 5,14.16).
Giữa thế giới còn đầy bất công, chiến tranh và chia rẽ, người Kitô hữu được mời gọi trở thành “sứ giả hòa bình” (Mt 5,9). Đường lối hòa bình ấy không qua bạo lực, nhưng qua yêu thương, qua lắng nghe và tha thứ. Khi chúng ta đối thoại với người khác trong tinh thần tôn trọng, khi chúng ta không đố kỵ với thành công của người chung quanh, khi chúng ta mở rộng vòng tay chia sẻ vật chất với những người thiếu thốn, lúc ấy bình an Phục sinh được thực hiện trên trần gian. Đó là sứ mạng của mỗi Kitô hữu: kiến tạo hòa bình từ tâm hồn cho tới cộng đồng, từ gia đình cho tới xã hội.
Cuối cùng, chúng ta hãy đặt trọn niềm tin tưởng vào Chúa Phục sinh. Dù hoàn cảnh có đổi thay, dù bao thử thách, bao biến cố bất ngờ vây quanh, bình an của Chúa vẫn không hề lung lay. Chúa đã thắng thế gian, đã vượt mồ chôn, và Ngài đồng hành với chúng ta đến tận cùng thời gian (Mt 28,20). Chính Ngài mời gọi chúng ta: “Đừng xao xuyến, đừng sợ hãi,” vì bình an Ngài trao tặng là món quà vô giá, vượt lên trên mọi lý luận trần thế.
Xin Chúa Phục sinh ban Thánh Thần để mỗi chúng ta được tràn đầy bình an, và biết đem bình an ấy đến với mọi người chung quanh. Xin cho chúng ta trở thành dụng cụ bình an, gieo hạt yêu thương và tha thứ, kiến tạo tình hiệp thông và hy vọng. Đó là cách chúng ta đáp lại ơn gọi làm môn đệ Chúa, làm chứng nhân cho tình yêu và bình an của Ngài giữa cuộc đời. Amen.
Lm. Anmai, CSsR