ĐỨC TRINH NỮ MA-RI-A, MẸ HỘI THÁNH Khi phụng vụ…

10 bài suy niệm Lời Chúa Thứ Bảy Tuần V Phục Sinh (của Lm. Anmai, CSsR)
DẪN VÀO VINH QUANG BẤT DIỆT
Hôm nay, Giáo Hội mời chúng ta cùng chiêm ngắm lời hứa tuyệt vời của Thiên Chúa khi bước vào ngày thứ Bảy tuần V Phục Sinh: Ngài sẽ dẫn đưa chúng ta vào cõi vinh quang bất diệt. Trong Khải Huyền, Chúa Giêsu tự xưng: “Ta là Chồi Non và Dòng Dõi Đavít, là Sao Mai sáng ngời” và Thần Khí cùng Tân Nương vang lên lời ngưỡng mộ: “Xin Ngài ngự đến! Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây!” (Kh 22,16–17). Tiếng vọng ấy không chỉ dừng lại ở chốn tương lai xa xăm, nhưng thấm nhập vào từng nhịp thở, từng bước chân của kẻ tin. Mỗi ngày, giữa bao thử thách và chông gai, chúng ta vẫn mang trong lòng lời mời gọi ngọt ngào ấy, đồng thời nhận lãnh trách nhiệm rao giảng Tin Mừng cho muôn dân.
Hành trình đức tin của chúng ta gồm hai giai đoạn rõ rệt: một hiện tại đầy gian nan thử thách và một tương lai chan hòa hạnh phúc vĩnh cửu. Thánh Augustinô từng ví mùa trước Phục Sinh là thời kỳ khắc khoải “năm mươi ngày của đau khổ,” còn mùa sau Phục Sinh là “năm mươi ngày của niềm vui” (Ep. 169,7). Khi Chúa Giêsu nói: “Anh em sẽ buồn sầu than khóc, còn thế gian thì sẽ vui mừng, nhưng ưu sầu của anh em sẽ biến thành hoan lạc” (Ga 16,20), Ngài muốn nhắc nhớ rằng đêm tối đời này không là vực thẳm cuối cùng. Dẫu con tim ta có rạn nứt vì cô đơn, vì bất công, vì những đau thương dường như không thể chịu đựng, thì vẫn có ánh bình minh Phục Sinh đang chờ đợi.
Đức Kitô, qua mầu nhiệm Khổ Nạn và Phục Sinh, đã mở lối cho chúng ta vượt qua cánh cửa sinh tử. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Côrintô khẳng định: “Nếu chúng ta chỉ trông cậy vào đời này, thì chúng ta là những người đáng thương nhất” (1 Cr 15,19). Nhưng Đức Kitô đã sống lại, phá tan quyền lực tội lỗi và ngục tù sự chết, để làm cho mọi ai tin được thông phần vào sự sống bất diệt. Mỗi bước chân chúng ta đạp lên gai góc đời thường, mỗi giọt lệ chúng ta đổ vì niềm tin, đều được Thiên Chúa nhìn nhận và ban thưởng. Cuộc sống tín hữu không phải là mê cung vô vọng, mà là hành trình hướng lên núi cao, để rồi nhìn thấy quang cảnh vinh phúc vô biên.
Kinh nghiệm của Giáo Hội sơ khai minh chứng chân lý này khi các tín hữu tại Côrintô, Rôma, và khắp thế gian đầu tiên, đã dấn thân trong ngục tù và lao đao, nhưng vẫn hân hoan vì niềm hy vọng vững chắc. Thánh Phaolô rao giảng không phải để mình được an nhàn, nhưng để mọi dân tộc đều biết ơn cứu độ: “Vì tôi không xấu hổ về Tin Mừng, bởi đó là sức mạnh cứu độ cho hết thảy ai tin” (Rm 1,16). Chính trong những hầm ngục tối tăm, Tin Mừng sáng lên rực rỡ như ánh sao mai, soi dẫn linh hồn vững bước. Những bức tường giam cầm xác phàm không thể kìm hãm ngọn lửa đức tin.
Chúng ta cũng được mời gọi sống lời hứa bất diệt ấy ngay giữa cuộc đời thường nhật. Mỗi Thánh Lễ, mầu nhiệm Thánh Thể là dấu chỉ vinh quang tương lai đã bắt đầu tuôn đổ gian nan của hiện tại. Khi chúng ta rước lấy Mình và Máu Thánh, ta như uống vào chính nguồn mạch hạnh phúc vĩnh cửu, để có sức vững tin mà thắng vượt cám dỗ, để có can đảm mà thi hành thánh ý Chúa. Vì thế, Thánh Thể không chỉ là kỷ niệm Chúa đã chết và sống lại, nhưng là trao ban chính Chúa và sự sống Chúa, dẫn đưa chúng ta tiến về ngày đang chờ.
Niềm hy vọng ấy cũng mạc khải thân phận mới của chúng ta: không còn là “nô lệ sự chết,” nhưng là con cái được Thiên Chúa nhận làm thừa kế vương quyền nước trời. Sách Thư Hêbơrê khích lệ: “Hãy ngước mắt lên, Chúa Giêsu, Đấng khai mở đức tin và đưa đức tin đến hoàn thiện” (Dt 12,2). Khi nhìn lên Thập Giá, chúng ta không chỉ thấy dấu tích tội lỗi và đau khổ, nhưng thấy tấm vé thông hành vào vinh quang. Và qua sự kiện Phục Sinh, vinh quang ấy đã hiển lộ: Đấng đã chết nay sống mãi, Ngài đang chờ để ôm ấp tất cả những ai trung thành bước theo.
Không dừng lại ở chuyện cá nhân, ơn cứu độ còn mang tính phổ quát: Thiên Chúa sẽ tập họp mọi dân tộc vào đoàn chiên của Ngài. Trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Phaolô nghe tiếng Chúa mời gọi: “Hãy đi đến Makedonia và giúp chúng tôi” (Cv 16,9), rồi không chần chờ, trao đổi công việc riêng để dấn thân loan báo. Tấm gương ấy kêu mời chúng ta không chỉ giữ niềm hy vọng cá nhân, nhưng hãy làm chứng về chân lý Phục Sinh cho bạn bè, đồng nghiệp, và những ai đang khát khao ý nghĩa. Lời rao giảng không phải là việc tùy hứng, mà là mệnh lệnh gắn liền với phép rửa và ơn gọi làm môn đệ: “Anh em hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho muôn dân” (Mc 16,15).
Giáo Hội qua các thế hệ luôn chứng minh: nơi nào Tin Mừng được gieo vào lòng người, nơi đó niềm hy vọng trỗi dậy. Những hàng dòng thánh lễ tại những vùng bị bách hại, những cộng đoàn lầm than vẫn sống động vì lời phó dâng cho Chúa vinh quang tương lai. Khi thế gian mời gọi chúng ta đánh đổi đức tin lấy quyến rũ phù du, chúng ta từ chối, vì biết rằng “chưa gì chúng ta đã được thấy vinh quang Thiên Chúa” (Ga 11,40). Chỉ nơi Thiên Chúa mới có sự sống đích thực, lời hứa vinh quang không hề thất bại.
Niềm hy vọng bất diệt ấy còn khiến chúng ta trân trọng nhau như anh chị em một gia đình thiêng liêng. Sách Thư Rôma nhắc rằng: “Nếu một thành viên chịu đau khổ, thì tất cả cùng đau khổ; nếu một thành viên được vinh hiển, thì tất cả cùng vui mừng” (Rm 12,15). Giữa cơn bão phong ba cuộc sống, anh em tín hữu là chiếc neo vững chắc, cùng chia sẻ gánh nặng, cùng khích lệ nhau hướng về ngày mai huy hoàng. Dẫu lời đời chua chát, đôi khi dòng tin giả lan tràn, chúng ta vẫn giữ nội tâm bình an, vì biết vinh quang bất diệt đang đón chờ.
Nhìn lên các thánh tử đạo, chúng ta thấy hình ảnh những chứng nhân đã hy sinh mạng sống vì Tin Mừng, tin chắc rằng cái chết không phải là thất bại cuối cùng, mà là ngưỡng cửa vào vinh quang. Họ đã nhận lời hứa của Chúa bằng máu đào của mình, và nay được xưng tụng trong cung lòng Giáo Hội. Tấm gương can trường ấy nhắc nhở: lời hứa bất diệt không phải là chuyện viễn vông, nhưng có giá trị thật trong cuộc sống và tận cùng lịch sử.
Với tâm tình tin tưởng và cậy trông, chúng ta cũng hãy sống như những kẻ đã được gọi để “sống lại” từ trong nước và Thánh Thần (Ga 3,5). Hãy để đời mình tỏa sáng như ánh sao mai, phản chiếu niềm hy vọng Phục Sinh cho thế gian âm u. Mỗi lời cầu nguyện, mỗi việc làm bác ái, mỗi hy sinh thầm lặng chính là một bước chân đưa người khác gần hơn với vinh quang Chúa hứa ban.
Hôm nay, khi nghe lời mời: “Ai nghe, hãy nói: ‘Xin Ngài ngự đến!’ Amen, lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến!”, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa tâm hồn mong chờ, dâng lên Ngài cả cuộc đời như một khúc ca ngợi ca. Giữa thử thách, đừng để buông tay, đừng để ngờ vực phủ kín; hăng say rao giảng Tin Mừng, hăng say sống tình bác ái, vì đó là cách chúng ta hợp tác với Thần Khí, trở thành chứng nhân sống động của Lời Chúa.
Và rồi ngày mai, khi mặt trời vĩnh hằng vươn lên sau màn đêm phán xét, chúng ta sẽ cùng vang lên khúc hát chiến thắng: “Phúc cho kẻ được gọi đến dự tiệc Cưới Chiên Con” (Kh 19,9). Đó là ngày mà mọi nước sẽ quỳ xuống trước ngai tòa Chúa, mọi ngôn ngữ sẽ ngợi khen Danh Chúa, bởi chính Ngài là Đấng “Chồi Non và Dòng Dõi Đavít, là Sao Mai sáng ngời.” Xin cho chúng ta luôn vững tin vào lời hứa bất diệt ấy, để mỗi ngày trần thế là một tiến bước ra miền ánh sáng vĩnh cửu. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
CAN ĐẢM LÊN! THẦY ĐÃ THẮNG THẾ GIAN
Thánh Gioan không chấp nhận sự nhập nhằng, mù mờ trong thái độ sống. Ngài luôn có sự phân biệt rõ rệt giữa ánh sáng và bóng tối, giữa yêu và ghét, giữa thế gian và những gì không thuộc về thế gian… Tin Mừng hôm nay Thánh sử Gioan đã minh họa rõ hơn về hai hình ảnh đối lập ấy: một bên là thế gian và bên kia là những người Chúa chọn, những người gắn bó với Chúa; một bên là tình yêu dành cho Thiên Chúa và bên kia là sự thù ghét thế gian mang lại.
Các nhà nghiên cứu cho thấy, thánh Gioan thể hiện xuyên suốt trong Tin Mừng thứ tư chủ đề tình yêu. Qua đoạn Tin Mừng hôm nay Ngài nêu lên một hình ảnh trái ngược làm sáng lên chủ đề tình yêu đó là “sự thù ghét”. Thống kê cho thấy Tin Mừng Gioan đã sử dụng 12 lần động từ “ghét”, động từ này hầu như các Tin Mừng khác không nói đến. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay và vài câu tiếp đó, tức Gioan 15, 18- 25 động từ “ghét” đã chiếm 7 lần. Chủ từ cho động từ “ghét” thường là “thế gian”, và động từ ghét thường gắn liền với các cụm từ: bách hại, trục xuất khỏi hội đường, giết chết.
Tin Mừng hôm nay đã mở ra cách riêng cho người môn đệ và chung cho cộng đoàn của những người theo Chúa Giêsu một viễn ảnh chẳng mấy tốt đẹp: “Vì danh Thầy, họ sẽ bị thế gian bắt bớ và ghét bỏ”. Trong ngôn ngữ của thánh Gioan, thế gian không có nghĩa là toàn thế giới, vì vũ trụ là công trình tác tạo do tình yêu của Thiên Chúa.
Thế gian ở đây là thế lực của sự dữ, của tất cả những gì đối nghịch cùng Thiên Chúa. Mà khi bước theo tiếng gọi của Chúa Giêsu, mặc nhiên người môn đệ đã chấp nhận dấn thân vào một đối đầu không khoan nhượng. Trong đó, họ sẽ lãnh lấy phần thua thiệt để phải hy sinh cả mạng sống. Ðiều này không chỉ xảy ra trong Giáo Hội thời sơ khai, nhưng mãi mãi cho đến hôm nay vẫn luôn còn bị bách hại.
Chúa Giêsu đã cho họ biết trước rằng làm môn đệ Ngài thì phải chấp nhận bị thế gian thù ghét. Nhưng thực tế, chúng ta một mặt tránh làm những gì khiến thế gian thù ghét mình, mặt khác còn tìm cách để thế gian yêu thương chiều chuộng mình. Hẳn là chúng ta không nên cố tình chọc tức thế gian, nhưng không nên quên lời Chúa nói: Chúng con ở giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian.
“Vì các con không thuộc về thế gian…nên thế gian ghét các con”. Người thế gian coi tiền bạc trọng hơn đạo đức, lọc lừa nhiều hơn là chân thật, ai cũng ích kỷ lo cho bản thân, thậm chí chà đạp lên người khác… Kitô hữu không thể sống như họ, cho nên bị họ thù ghét. Vậy, nếu vì phải sống theo lý tưởng tốt đẹp của mình mà bị thế gian thù ghét, chúng ta hãy chấp nhận.
“Nếu thế gian ghét các con, các con hãy biết rằng họ đã ghét Thầy trước”. Chúng ta chấp nhận bị thế gian thù ghét vì lý do chúng ta làm môn đệ Chúa, chúng ta phải vác Thập giá hằng ngày mà theo Chúa.
“Giả như anh em thuộc về thế gian, thế gian yêu thích những gì thuộc về nó. Nhưng anh em không thuộc về thế gian, và Thầy đã chọn, đã tách anh em ra khỏi thế gian nên thế gian ghét anh em”.
Chúa Giêsu đưa ra câu trả lời thật rõ: “Tôi tớ không lớn hơn chủ” ; “Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em. Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em. Nhưng họ sẽ làm tất cả những điều ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy”. Ở những nơi khác của Tin Mừng Nhất Lãm cũng nói lên điều đó. Số phận những Kitô hữu gắn liền với số phận của Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu bị hiểu lầm, chống đối, thù ghét… thì số phận của những người theo Ngài cũng giống như vậy. (Mc 1, 9- 13 ; Mt 10, 17- 22.23- 29 ; Lc 12, 2- 9.51- 53).
Mặt khác, khi thuộc về Chúa, nghĩa là đứng ở phía đối lập với thế gian, mà thế gian thì ghét những ai không thuộc về chúng. Hơn nữa, đời sống của những người không thuộc thế gian là một đời sống công chính, vượt ra ngoài bóng tối tội lỗi. Đời sống ấy gián tiếp là lời tố cáo những thế lực đen tối, tội lỗi. Đời sống thánh thiện của người theo Chúa sẽ là lời kết án những ai sống bừa bãi. Khi bạn sống ngay thật bác ái, thì sẽ làm cho những ai sống trái với những điều ấy khó chịu, họ sẽ né tránh và loại trừ bạn. Đời sống ấy ắt hẳn là nguyên nhân của mọi sự loại trừ.
Ở Ga 15, 1-17 ngay trước đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nhắc các môn đệ của Ngài “hãy lưu lại trong tình yêu và tình bạn với Ngài”. Nghĩa là, trước khi những người theo Chúa chịu sự ngược đãi của thế gian, thì trước đó họ phải được liên kết mật thiết với Chúa Giêsu. Họ phải nên một với Ngài như cây và cành, như đầu và chi thể. Nếu họ có được điều này, thì những gì thế gian đem lại sẽ không thể tách họ ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa.
Tuy nhiên một điều đem lại nguồn an ủi lớn lao cho những ai đi theo Chúa, Chúa nói ngay sau đoạn Tin Mừng hôm nay: Ngài hứa ban bình an và niềm vui của Ngài cho những ai theo Ngài. Và khi có niềm vui và bình an của chính Chúa, khi ấy những ai đi theo Ngài sẽ có đủ sức mạnh vượt thắng thế gian.
Sống cho sự thật, làm chứng cho sự thật, dám nói lên sự thật là chấp nhận bị tẩy chay, bị loại trừ, bị bách hại. Một số phận như thế lại càng rõ nét hơn trong một chế độ xây dựng trên dối trá, lừa bịp. Trong một chế độ như thế, những ai trung thành với Chúa Giêsu, Ðấng đã bị bách hại vì sự thật, chắc chắn không thể không bị bách hại.
Như vậy để giải quyết vấn đề thế gian thù ghét những người không thuộc về chúng, Chúa Giêsu muốn những ai thuộc về Ngài phải liên kết chặt chẽ với Ngài. Nếu người ấy kết hợp mật thiết với Ngài, họ phải tin rằng họ không bị bỏ rơi, họ được bình an và tình yêu Thiên Chúa sẽ bao phủ, thế lực của tình yêu sẽ chiến thắng sự gian ác. Chúa đã nói: anh em hãy vui lên, Thầy đã thắng thế gian, và chắc chắn ai gắn bó với Ngài cũng sẽ thắng thế gian.
Tin Mừng hôm nay cho ta thấy: “Vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em.” (Ga 15, 19). Thế gian mà Chúa nói đến ở đây là một thế gian đố kỵ và thù nghịch với Thiên Chúa, Đấng chân thật, tràn đầy tình yêu và sự sống. Thánh Phaolô cũng mô tả: Đó là một thế gian “ích kỷ, ham tiền bạc, khoác lác, kiêu ngạo, nói lộng ngôn,.. vô ơn bạc nghĩa, phạm thượng, vô tâm vô tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, phản trắc, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc” (2 Tm 3, 2– 4). Kết cục của nó sẽ là sự diệt vong, hư mất đời đời.
Khi mang danh là Kitô hữu nghĩa là chúng ta thuộc về Đức Kitô, được thông phần đau khổ với Ngài và được vinh hạnh cùng Ngài cứu chuộc thế giới ngang qua những đau khổ mà chúng ta phải chịu vì danh Đức Giêsu. Vì thế, những trái khuấy dồn dập tư bề; những đau khổ về tinh thần lẫn thể xác như: bị bắt bớ, đánh đập và ngay cả cái chết… chúng ta hãy vui mừng hân hoan, bởi lẽ, lúc đó, chúng ta được trở nên giống Đức Giêsu hơn bao giờ hết và thật vinh hạnh vì được thuộc về Ngài chứ không thuộc về thế gian.
Là Kitô hữu, ta không thuộc về thế gian đang trên đà diệt vong của nó. Nhưng Chúa cũng không cất chúng ta ra khỏi thế gian. Chúa đã chiến thắng thứ thế gian tội lỗi ấy rồi và Chúa đang mời gọi ta hãy can đảm dấn thân để chiến thắng thế gian: “Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta ý thức sâu sắc về danh hiệu Kitô của chúng ta. Mang danh hiệu Kitô là tham dự vào mầu nhiệm Tử nạn và Thập giá của Chúa Kitô, nhưng chúng ta tin chắc rằng nhờ tham dự vào mầu nhiệm khổ nạn và Thập giá ấy mà chúng ta góp phần vào việc cứu rỗi và canh tân thế giới. Khổ đau mà các Kitô hữu đang phải gánh chịu vì Danh Chúa Giêsu là hạt giống trổ sinh những hoa trái của niềm tin.
Lm. Anmai, CSsR
NGƯỜI TÔI TỚ VÀ CHỦ NHÀ: HẰNG SỐNG TRONG BÓNG TỐI VÀ ÁNH SÁNG VĨNH HẰNG
Trong giờ phút tĩnh lặng của chiều hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta dừng lại trước Lời Chúa: “Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em” (Ga 15,20). Câu nói ngỡ như lời cảnh báo lạnh lùng ấy thực ra chứa đựng một mầu nhiệm sâu sắc về sự hiệp thông giữa Thầy và trò, giữa Con và Cha, giữa sự yếu hèn của máng cỏ trần gian và vinh quang bất diệt của Thiên Chúa. Trong mỗi biến cố bách hại, trong mỗi khoảnh khắc chịu đựng, chúng ta tìm thấy dấu chỉ tình yêu mạc đến tận cùng của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Chúng ta có mong ước được như Chúa Giêsu hay không? Khát khao ấy đẹp tựa ngọc lưu ly, nhưng lại dẫn lối chúng ta vào vực sâu của thực tại trần thế, nơi sự thánh thiện không phải luôn được thế gian hoan nghênh. Con đường Kitô hữu không phải là hành trình bình yên, êm đềm của người được cưng chiều, mà là cuộc lữ hành giữa bão tố, nơi ánh sáng của Đức Kitô tỏa rạng giữa bóng tối. Khi nhìn vào cuộc đời Đấng Cứu Chuộc, chúng ta không thể không chạnh lòng: Ngài – Đấng vô tội hoàn hảo, đã bị bách hại, bị vùi dập, bị giết chết trong đắng cay và phẫn uất. Vậy tại sao? Vì sự thật ngự giữa Ngài chói ngời như sao mai, nhưng chính vì ánh sáng ấy, thế gian càng tìm cách dập tắt bóng lửa của Ngài.
Giữa đêm trường tăm tối, Chúa Giêsu bị bắt; giữa phiên tòa dối trá, Ngài bị xử án; trên đồi Calvê, Ngài chịu khổ hình. Mỗi nhát đòn, mỗi lời chế nhạo, mỗi bước chân lê lết dưới thập giá không phải là thất bại, nhưng là đường dẫn lên cõi vinh quang bất diệt. Từ thân phận con người mỏng dòn, Ngài đã hiến thân mình cho Thiên Chúa Cha, gánh chịu tội lỗi thế gian và ban sự sống mới cho muôn dân.
Nếu chúng ta – những môn đệ đầu tiên – xuất hiện đó, liệu có chút sợ hãi, sững sờ? Chúng ta liệu có nghĩ rằng mọi hy sinh, mọi bách hại là dấu hiệu sai lầm của đức tin? Chắc hẳn, chúng ta sẽ lúng túng khi chứng kiến đấng Thầy mình bị khinh khi, bị ghẻ lạnh. Nhưng đó lại chính là lúc Thiên Chúa tỏ lộ quyền năng cứu độ: Ngài không ngăn cản dòng chảy oan khiên, để chúng ta nhận ra tình yêu tự do cứu chuộc, tình yêu không ràng buộc, không vụ lợi, tình yêu đi đến cùng thập giá để chiến thắng sự chết.
Sự bách hại không phải là điều chúng ta tìm kiếm, nhưng cũng không phải là điều đáng chối bỏ. Khi Chúa Giêsu dạy rằng: “Nếu họ ngược đãi Thầy, thì họ cũng sẽ ngược đãi anh em”, Ngài không chỉ cảnh báo mà còn ủy thác cho chúng ta tham dự vào mầu nhiệm cứu độ. Mỗi lời sỉ vả, mỗi ánh mắt khinh khi, mỗi cửa chùa bị khóa ngoài… đều trở nên bậc thang đưa linh hồn chúng ta tiến gần hơn với Đấng chịu đựng mọi sự. Thay vì rụt rè, chúng ta được mời gọi dũng cảm làm chứng cho Tin Mừng qua cuộc sống hằng ngày, qua những nụ cười, những lời an ủi, những việc bác ái không tên.
Trong thế giới đầy cám dỗ để chạy theo lợi lộc, quyền lực và thụ hưởng, chứng nhân Kitô giáo nổi bật bởi niềm vui giữa gian nan. Đau khổ không phải chấm dứt hy vọng, mà là thửa đất màu mỡ giúp hạt mầm Tin Mừng nảy sinh và phát triển. Khi chúng ta phó thác mọi đau thương cho Chúa, thì ngay trong giây phút đớn đau nhất, chúng ta được ơn bình an và niềm tin vững vàng. Đó là dấu chỉ Thiên Chúa đang hành động, đang đổi mới, đang dựng lên người môn đệ sẵn sàng chấp nhận hy sinh vì sự thật.
Hôm nay, trước thách đố của thế gian, chúng ta hãy can đảm nhận diện bất kỳ hình thức bách hại, phỉ báng hay bất công nào xảy đến vì niềm tin và vì Tin Mừng. Đừng để những lời dèm pha làm chùn chân, đừng để những ánh mắt khinh khi làm nhụt chí. Thay vào đó, chúng ta hãy đưa mắt nhìn lên Thập Giá, nơi Thầy Giêsu ngự giữa tình yêu cao vời, để học nơi Ngài tinh thần tha thứ, lòng kiên nhẫn và niềm hy vọng. Hãy trao dâng những tổn thương cho trời xanh, để Chúa xoay chuyển đau thương thành hoa trái của ơn cứu độ.
Mỗi ngày trôi qua, chúng ta có thể lựa chọn sống an nhàn theo trào lưu thế gian, hoặc dấn thân cho sự thật và tình yêu vô bờ. Chọn con đường thứ nhất, chúng ta sẽ tìm thấy sự tạm bợ, sự mỏng manh; chọn con đường thứ hai, chúng ta chấp nhận thử thách, nhưng lại cảm nghiệm hạnh phúc đích thực. Vì chỉ nơi nào có hy sinh, nơi đó tình yêu mới nở hoa rực rỡ. Chỉ trong bóng tối thử thách, ánh sáng Tin Mừng mới tỏa chiếu rực rỡ.
Anh chị em thân mến, hôm nay chúng ta hãy ghi khắc trong tim lời Chúa: “Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà”. Trong thân phận mỏng dòn của kẻ tôi tớ, chúng ta được mời gọi bước theo chủ nhà, hòa mình vào hành trình vinh quang của Ngài. Mỗi lần bị bắt bớ, mỗi lần chịu đau khổ, là mỗi lần chúng ta tham dự vào thập giá cứu độ, là mỗi lần chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa vẫn luôn ở bên, vẫn ban ơn nâng đỡ. Xin cho chúng ta can đảm sống chứng tá Tin Mừng không vì lợi ích trần gian, nhưng vì vinh quang Thiên Chúa và hạnh phúc đời đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho tâm hồn chúng con không lùi bước trước bóng tối của sự bách hại. Xin cho chúng con dám mang lấy thập giá của mình, để cùng với Ngài tiến vào ánh sáng vinh quang bất diệt. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
VINH QUANG VÀ LỜI NGUYỀN BÁM LẤY TRUNG TÍN
“Khi thế gian ghét Thầy, sẽ ghét cả các con.” Lời Chúa Giêsu vang lên như một lời cảnh báo, nhưng cũng là lời khích lệ, được nói ra từ chính kinh nghiệm Thầy đã sống. Ngày xưa, Người bị loại trừ, bị lên án, bị giết chết trong sự bức hại của quyền lực trần gian. Thế nhưng, chính qua chân thập giá ấy, Thầy đã chiến thắng sự dữ và mở ra con đường vinh quang bất diệt. Trong ngày thứ Bảy tuần V Phục Sinh này, chúng ta cùng chiêm ngắm mầu nhiệm tình yêu và chân lý mà Chúa Giêsu trao ban cho các môn đệ, để nhận ra rõ hơn những thách đố và niềm hy vọng của đời sống con cái Chúa.
Khi nhìn vào cách người Do Thái loại trừ Chúa Giêsu, chúng ta thấy quyền lực thế gian đối lập lại quyền lực của Thiên Chúa như thế nào. Những kẻ chủ chốt trong đền thờ đã tìm đủ lý do để loại trừ Đấng Kitô: vì Người tự xưng là Con Thiên Chúa, vì lời rao giảng của Người chạm đến uy quyền của họ, vì các dấu lạ Người thực hiện đe dọa vị thế quyền lực của nhóm lãnh đạo tôn giáo. Không phải họ ghét điều sai, nhưng họ ghét Thiên Chúa hành động ngay giữa họ. Và những ai đến với Chúa Giêsu, sống cho Chúa, đồng hành với Chúa, liền bị xem là mối đe dọa cho trật tự thế gian.
Các môn đệ của Chúa Giêsu cũng chia sẻ đời sống đặc biệt này: được mời gọi ra khỏi thế gian, tách biệt khỏi những giá trị xét theo thước đo quyền lực, tiền bạc, danh vọng. Chính vì lẽ đó, thế gian không thích họ. Khi bạn dùng đức tin để nói với thế giới, nhiều người cho rằng bạn ngu xuẩn, lạc hậu. Trong thời đại đề cao khoa học thực chứng, người ta xem tôn giáo như “thuốc phiện” để triệt tiêu mọi niềm tin. Họ bảo rằng chỉ có những gì đo lường được, kiểm chứng được mới xác thực. Nhưng bạn đã từng trải nghiệm sức mạnh của đức tin, đã gặp Chúa trong cầu nguyện, đã cảm nhận sự biến đổi nội tâm, nên bạn không lời nào có thể diễn tả được. Bạn im lặng, và thế gian thắng thế bằng sự hoài nghi, và bạn tủi thân trước vô số chất vấn “Thế niềm tin của con ở đâu?”.
Bạn sống thanh liêm, trong sạch, khiêm nhường, hiền hòa. Nhưng trong cơ chế xã hội mà gian dối là chủ đạo và đồng tiền chi phối mọi thứ, người ta bảo bạn cổ lỗ sĩ, không “pro”, không theo kịp thời đại. Giữa xã hội gắn liền với kim tiền, của cải vật chất quyết định địa vị và ý thức hệ, người trung thực, ngay thẳng liền bị cô lập, thậm chí bị thủ tiêu: danh dự bị bôi nhọ, quyền lợi bị tước đoạt, tiếng tăm bị chà đạp. Trong thời mà ăn mặc hở hang, khoe da khoe thịt được xem là quyến rũ, bạn kín đáo liền thành kẻ lạc điệu, “lỗi thời”. Tất cả là vì bạn không thuộc về thế gian, không phục tùng những lề lối và chuẩn mực sai lệch ấy.
Thế nhưng, thầy bảo: “Đừng sợ, Ta đã thắng thế gian.” (Ga 16,33) Chúa Giêsu không chỉ báo trước những ngày khó khăn, mà còn trao ban chính Ngài làm nguồn sức mạnh. Con đường thập giá không phải là chấm dứt, mà là cánh cửa dẫn vào vinh quang. Các môn đệ chỉ khi dám chấp nhận bị hiểu lầm, bị loại trừ, bị đe dọa, thì mới thực sự chứng minh tình yêu trung tín. Khi cả thế gian quay lưng, chúng ta vẫn đứng vững, vì Chúa Đầu thai, chịu chết và phục sinh đã ở cùng ta, nâng đỡ ta.
Bạn có can đảm yêu thương đến cùng, khi xung quanh đầy dẫy đố kỵ, ghen tương, bỉ ổi, đê tiện hay không? Bạn có can đảm nói lên sự thật, khi chung quanh là sự im lặng hèn nhát để thủ lợi cho bản thân hay không? Bạn có dám tố cáo sự gian dối, khi xung quanh có thể trù dập, loại trừ bạn hay không? Đó là những nghịch lý trong xã hội hôm nay. Nhưng chính trong nghịch lý ấy, Chúa Giêsu mời gọi: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con.” (Ga 15,12) Yêu thương và trung tín là bằng chứng thuyết phục nhất về thân phận môn đệ.
Hãy lấy đức tin của mình chống lại những luận điệu hoài nghi của thế gian. Trong thế giới đặt nặng lý tính, chúng ta vẫn trân quý những điều mà lý tính không thể giải thích: tình yêu vô vị lợi, hy sinh thầm lặng, cảm thông và chia sẻ những vết thương. Mỗi lần bạn phục vụ người nghèo khổ, an ủi kẻ mất mát, chăm sóc người bệnh tật, là bạn phản bác nền văn minh vô tâm. Mỗi lần bạn bảo vệ sự thật trước những áp lực dối trá, là bạn loan báo Tin Mừng cho thế gian.
Nhìn cách cộng đoàn đầu tiên sống chứng tá giữa thành Giêrusalem đầy biến động, chúng ta nhận ra con đường vinh quang vẫn gắn liền với đổ máu và hy sinh. Thánh Phêrô, thánh Phaolô, các Tông đồ đã chết vì lời của Chúa. Nhưng Tổ chức Giáo Hội không tan rã, trái lại, càng phát triển và lan tỏa. Bởi vì chân lý của Chúa là sức mạnh vĩnh cửu, không kẻ thù nào có thể diệt trừ.
Hôm nay, chúng ta được mời gọi sống lời Thầy Giêsu: “Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em.” (Ga 15,20) Nhưng đừng bỏ chạy! Hãy ở lại trong tình yêu ấy. Hãy nhớ rằng, khi bạn bị ghét, bị hiểu lầm, bị bỏ rơi, là khi bạn đang đồng hành với Chúa. Chính qua những thử thách ấy, đức tin chúng ta được thử thách và củng cố. Chỉ khi trải qua thử thách, hạt lúa mới ngã xuống đất, nẩy sinh nhiều bông hạt.
Vậy hôm nay, trong bầu khí hân hoan mừng lễ thứ Bảy Tuần V Phục Sinh, xin cho mỗi người chúng ta can đảm bước theo Chúa, can đảm đi ngược xu thế thế gian, can đảm sống giữa thế giới bằng tinh thần Tin Mừng. Đừng sợ hãi khi bị thù ghét, vì Chúa đã chiến thắng. Đừng lùi bước khi phải đứng lên bênh vực lẽ phải, vì Chúa đang ở cùng chúng ta.
Cuộc đời đức tin luôn là hành trình song hành giữa thập giá và vinh quang. Xin cho mọi khó khăn, khổ đau, cám dỗ không làm chúng ta chùn bước, nhưng trở thành cơ hội để thăng tiến tâm linh, để xác tín rằng: “Người nào bám giữ lời Ta, người đó không mất mát, và Ta sẽ cho người sống đời đời.” (Ga 8,51)
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con ơn trung tín và can đảm, để dù bị thế gian đối nghịch, chúng con vẫn vững vàng sống Tin Mừng. Xin cho chúng con biết dấn thân trong yêu thương, biết làm chứng cho sự thật, và luôn hy vọng vào vinh quang mà Chúa đã hứa. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
VINH DỰ ĐƯỢC SỐNG GIỮA THẾ GIAN HẮT HỦI
Hôm nay, khi bước vào Thứ Bảy Tuần V Phục Sinh, Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng chiêm ngắm lời Chúa Giêsu phán dạy: “Nếu thế gian ghét các con, các con hãy biết rằng họ đã ghét Thầy trước” (Ga 15,18). Đây không chỉ là một lời cảnh báo, nhưng còn là một mạc khải về căn tính và sứ mệnh của chúng ta: là những kẻ được Chúa tuyển chọn khỏi thế gian, để làm chứng cho chân lý và tình yêu của Người giữa một thế giới đầy biến động và nghi kỵ.
Chúng ta đang sống trong một thời đại mà mọi giá trị dường như lung lay trước thử thách của sự thay đổi không ngừng. Công nghệ bùng nổ, mạng xã hội lan tỏa, thông tin tràn ngập, đưa đến cho chúng ta vô vàn tiện nghi, nhưng cũng gieo rắc biết bao lừa dối, chia rẽ và nghi hoặc. Có những lúc, chính bản thân chúng ta đôi khi cũng cám dỗ chạy theo những giá trị giả tạo: danh vọng, tiền tài, thú vui chóng qua… và quên mất tiếng gọi sâu thẳm của Thiên Chúa nơi tâm hồn mình.
Thế nhưng, trong bối cảnh đó, Chúa Giêsu nhắc nhở: “Nếu các con thuộc về thế gian, thế gian sẽ yêu thích cái gì là của nó, nhưng các con không thuộc về thế gian” (Ga 15,19). Đức tin của chúng ta không phải là một thứ hành trang văn hóa mà ta gắn vào cho đẹp hình thức, nhưng chính là huyết mạch ngập tràn lòng mến của Đấng Cứu Thế. Chúng ta được mời gọi sống khác biệt, sống rạng ngời những giá trị Tin Mừng giữa bể đời thăm thẳm, như hạt muối cần mẫn ươm mùi mặn lành giữa biển cả bao la, như ánh sáng tỏa rạng giữa đêm đen chập chờn.
Nhưng sống như vậy, dĩ nhiên, không thể tránh khỏi sự chống đối. Đức Giêsu quả quyết: “Nếu họ đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con… Tại vì danh Thầy mà họ sẽ làm cho các con tất cả những điều đó, bởi vì họ không biết Đấng đã sai Thầy” (Ga 15,20-21). Những người không nhận ra Thiên Chúa trong Chúa Giêsu, không đón nhận Lời Người, sẽ quay lưng thù ghét những con cái của Người. Họ không hiểu cội nguồn tình yêu và sự thật mà ta mang truyền, nên họ tìm cách loại trừ ánh sáng, vùi dập chứng nhân.
Chúng ta có thể thấy rõ điều ấy nơi lịch sử Giáo Hội: bao nhiêu chứng nhân thời khai sinh đã chịu bách hại, hàng ngàn linh hồn thánh thiện đã đổ máu làm chứng cho Tin Mừng. Ngày nay, nơi xã hội mở mang, chúng ta vẫn có thể hứng chịu ánh mắt khinh thị, lời dè bỉu, thậm chí đe dọa và xa lánh. Nhưng mỗi khi trải qua những đau khổ ấy, ta hãy nhớ rằng mình đi theo Đấng đã đi trước. Cũng chính Ngài đã vác thập giá, chịu nhục nhã và cái chết nhục nhã, để từ đó phục sinh và trao ban ơn cứu độ.
Niềm an ủi sâu xa cho chúng ta chính là: Chúa Giêsu không để con cái Người phải đơn độc. “Thầy ở lại với các con luôn cho đến tận thế” (Mt 28,20). Trong mọi gian nan, chúng ta có Ngài – Đấng luôn thông hiểu, luôn nâng đỡ và ban Thánh Thần an ủi. Khi bị ghét bỏ, ta không cam chịu nỗi cô đơn; khi bị bách hại, ta không tuyệt vọng, vì ánh mắt dịu hiền của Chúa vẫn nhìn thấu tỏ tâm hồn. Lời thánh Phaolô vang vọng trong ta: “Tôi biết rằng Thiên Chúa yêu tôi, và Người bảo vệ tôi” (Rm 8,31).
Một thực tế nữa chúng ta cần thấm thía: chúng ta không chỉ bị thế gian ghét bỏ vì chúng ta có đức tin, mà còn bởi cách chúng ta sống chứng tá. Nếu đời sống của chúng ta không hòa hợp với Tin Mừng, ngôn ngữ mâu thuẫn với hành động, thì chúng ta chẳng khác gì kẻ gánh thêm gánh nặng cho người khác. Có lẽ đó là lý do nhiều người ngoài Công giáo chán nản, xa lìa vì hình ảnh tín hữu thiếu trung thực, thiếu yêu thương. Cho nên, trước khi phán xét người ngoài, ta cần nhìn lại chính mình: cách ta phục vụ, cách ta đối xử, cách ta tha thứ và yêu thương có làm sáng danh Chúa không?
Hôm nay, chúng ta được mời gọi sống mạnh mẽ hơn nữa, sống như những tông đồ thực sự, không ràng buộc bởi các giá trị trần thế, nhưng luôn hướng về chân lý và yêu thương. Sống như vậy không phải là chọn lựa khổ hạnh để tách khỏi đời sống, nhưng là sống đồng hành với thế gian bằng lòng trắc ẩn của Thiên Chúa. Chúng ta chung tay xây dựng gia đình, xã hội, công sở, trường học… đều trở thành những “mảnh đất Tin Mừng”, nơi mà Lời Chúa được gieo trồng và thu hoạch hoa trái yêu thương, công bình, hiệp nhất.
Khi đối diện với những lời vu khống, cám dỗ, hay khinh miệt, đừng vội nản lòng. Hãy để Lời Chúa soi sáng, để Thánh Thần canh tân tâm hồn. Hãy cầu nguyện cho những kẻ chống đối chúng ta, bởi chính Chúa dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con” (Mt 5,44). Trong lời cầu ấy, trong tình yêu ấy, chúng ta trở nên khí cụ hòa bình, là chứng nhân sống động cho lòng thương xót của Thiên Chúa giữa cõi đời bất định.
Hơn nữa, chúng ta cần vun trồng lòng khao khát hiệp nhất với Chúa trong bí tích Thánh Thể. Đón rước Thánh Thể không chỉ để được lấy sức mà còn để biến đổi chúng ta nên một với Chúa, để mỗi hơi thở, mỗi bước chân đều phát xuất từ tình yêu và ý định của Người. Khi chúng ta thấm nhuần sự hiệp thông ấy, dù bị thế gian thù ghét, ta vẫn bình an và hiên ngang. Bởi, như thánh Phaolô xác tín: “Không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa” (Rm 8,39).
Và cuối cùng, chúng ta đừng quên cầu nguyện cho Giáo Hội hoàn vũ và từng tín hữu, nhất là những ai đang chịu bách hại vì đức tin. Cầu nguyện là sức mạnh mãnh liệt nhất, kết nối chúng ta với toàn thể thân thể Chúa Kitô. Khi cầu nguyện, chúng ta góp phần vào sứ mệnh cứu độ mà Chúa trao phó cho Giáo Hội, đồng thời chính chúng ta cũng được đổi mới và gia tăng niềm tin.
Anh chị em thân mến, được sống giữa một thế gian hắt hủi xem ra là bất hạnh, nhưng thực chất là một vinh dự lớn lao. Bởi chúng ta không chỉ là những công dân trần gian, nhưng là con cái Thiên Chúa, thừa hưởng vinh quang muôn đời. Hãy mạnh dạn tuyên xưng đức tin, thực thi công lý, hoán cải bản thân và thắp lên ngọn lửa yêu thương nơi mọi nơi ta đến.
Xin cho mỗi ngày sống của chúng ta trở thành bài ca tôn vinh Chúa – Đấng đã chọn ta khỏi thế gian, đã yêu thương ta trước, và hứa ban phần thưởng vĩnh cửu cho những ai kiên trung đến cùng. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
ÁNH SÁNG TỪ CÂY THÁNH GIÁ: ƠN CỨU ĐỘ VÀ CHỨNG TÁ KI-TÔ HỮU
Chúa Kitô Phục sinh chính là ơn cứu độ cho tất cả những ai tin và bước theo Ngài. Niềm tin tha thiết vào Đức Kitô Phục sinh biến đổi căn tính của người Ki-tô hữu: không còn sống cho mình, mà sống vì Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta. Nhờ ơn đức tin, chúng ta dám xưng hô với Thiên Chúa là Cha: “Lạy Cha chúng con ngự trên trời”, một ngôn ngữ đầy quyền năng và thân mật, đồng thời tôn vinh Ngài là căn nguyên đệ nhất, là Đấng toàn năng, nhưng cũng là Đấng nhân hậu và rất mực yêu thương. Trong từng lời kinh nguyện, chúng ta khẳng định đức tin rằng Thiên Chúa giàu lòng xót thương, luôn sẵn sàng ban muôn ơn lành cho những ai đặt niềm tin tưởng và cậy trông vào Ngài.
Quả thế, trong mầu nhiệm Thương Khó, Chúa Giêsu đã thiết lập con đường dẫn đến sự sống vĩnh hằng, nhưng cũng là con đường thử thách cho mọi môn đệ. Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Nếu họ đã bắt Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con; nếu họ tuân giữ lời Thầy, thì họ cũng sẽ tuân giữ lời các con.” Sự thù ghét của thế gian không phải chỉ là hận thù nông nổi, mà là hệ thống bài xích những giá trị Tin Mừng và những người dám sống Tin Mừng. Từ thời Giáo hội đầu tiên đến ngày nay, bách hại vẫn tồn tại dưới nhiều hình thức: từ khủng bố công khai cho đến những âm mưu “thuần hóa” đức tin, gieo rắc ngờ vực và phân tán cộng đoàn.
Thời hiện đại, sự thù ghét càng tinh vi hơn, người ta không còn gán cho Ki-tô hữu những nhãn hiệu “tả đạo” hay “bình tây sát tả”; thay vào đó là chiêu bài “điều chỉnh” và “đồng hành” để đánh tráo khái niệm, làm lu mờ chân lý. Họ nhắm vào bề nổi, thao túng thông tin, khiến lương tâm tín hữu dễ bị dao động. Bi kịch là nhiều Ki-tô hữu cố gắng thích nghi để “hòa nhập”, đánh mất dấu ấn thánh thiện của mình. Nhưng Phúc Âm không kêu mời chúng ta hòa mình vào thế gian, mà mời gọi chúng ta khác biệt, là muối men trong bột, là ánh sáng soi rọi mọi nơi.
Vậy, đâu là câu trả lời cho những đau khổ và bách hại mà môn đệ của Đức Kitô phải gánh chịu? Câu trả lời không ở đâu xa, chính là cây Thánh Giá. Khi ngước mặt lên nhìn Thánh Giá, chúng ta nhận ra mầu nhiệm sâu xa: trong đau khổ, có hy vọng; trong cái chết, có sự sống; trong nỗi tối, có ánh sáng. Thánh Giá không chỉ là vật kỷ niệm của quá khứ, nhưng là vũ khí thiêng liêng và nguồn sức mạnh bất diệt. Tại Thánh Giá, Thiên Chúa không chỉ hiện diện, Ngài đã hóa thành Con, chịu chết vì yêu thương, để mở ra con đường cứu độ.
Chính nhờ cây Thánh Giá, chúng ta nhận ra “không ai thánh hóa dân Kitô giáo ngoài Chúa Kitô, không ai ban ơn lành cho nhân loại ngoài Chúa Kitô”. Từ mầu nhiệm Thập Giá phát sinh lòng tin, hy vọng và tình yêu, là ba nhân đức nền tảng của đời sống Kitô hữu. Nhờ đó, chúng ta không sống cô độc, nhưng hiệp thông sâu sắc với cộng đoàn Hội Thánh – thân mình mầu nhiệm của Chúa Kitô. Trong hiệp thông đó, chúng ta tìm được chia sẻ, nâng đỡ và trao ban lẫn nhau những ơn lành Thiên Chúa ban.
Chứng tá Ki-tô hữu không chỉ là lời nói suông, nhưng là đời sống được cấu thành từ những cử chỉ yêu thương, hy sinh và can đảm. Khi chúng ta dám sống trung tín cho đến cùng, dám chấp nhận đau khổ vì danh Chúa, chúng ta trở thành dấu chỉ sống động của tình yêu Thiên Chúa. Trong xã hội hiện nay, chứng tá ấy cần được diễn tả qua sự tôn trọng phẩm giá con người, phục vụ người nghèo khổ, và bảo vệ sự thật. Đó chính là sứ mạng Chúa Giêsu đã trao cho Hội Thánh: “Các con là muối men; các con là ánh sáng thế gian.”
Ánh sáng ấy không đến từ kỹ năng thuyết trình hay chiêu trò truyền thông, nhưng đến từ sự sống dâng hiến của chúng ta. Khi chúng ta quảng đại mở lòng ra với người khác, vị tha tha thứ cho kẻ đã làm tổn thương, và vương vấn trong cầu nguyện không ngừng, chính Chúa Thánh Thần – “linh hồn” của Hội Thánh – đang hoạt động nơi chúng ta. Quả thật, thánh Phaolô nhắc rằng “đức tin phát sinh từ nghe lời, và nghe lời bởi lời Ki-tô” (Rm 10,17). Chúng ta không thể tách rời lẽ mạc khải và đời sống chứng tá; một đời sống Tin Mừng đúng nghĩa phải là tổng hòa giữa đức tin, đức cậy và đức mến.
Trước những cám dỗ của sự thờ ơ, của chủ nghĩa tương đối và lối sống hưởng thụ, chúng ta cần nhìn lên Thánh Giá như nguồn động lực. Khi cảm thấy yếu lòng, hãy quay về cầu nguyện, hãy nhìn Thánh Giá, nhớ rằng chính Đức Giêsu đã “sẵn sàng đi mọi con đường gian khổ cho đến cùng” vì tình yêu Cha. Như Người, chúng ta cũng được mời gọi bước đi trên con đường ấy, không vì ưa thích đau khổ, nhưng để làm chứng cho Tin Mừng cứu độ.
Đặc biệt trong Ngày này, Hội Thánh mời gọi mỗi tín hữu làm mới tâm tình sám hối và hiệp thông: sám hối vì những khi chúng ta đã nguội lạnh, đã để cho sợ hãi và mặc cảm triệt tiêu nhiệt tâm sống Tin Mừng; hiệp thông xây dựng nhau bằng lời cầu nguyện, bằng cử chỉ chia sẻ và bằng việc thực thi bác ái. Mỗi hành động dù nhỏ bé, nhưng khi được thực hiện trong tinh thần Thập Giá, đều trở nên lớn lao, góp phần loan báo Tin Mừng cho thế giới hôm nay.
Chúng ta cũng nhớ lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác Thập Giá mình mà theo.” Việc từ bỏ không chỉ là từ bỏ vật chất, nhưng là buông bỏ cái tôi ích kỷ, những tham vọng hão huyền, và sẵn sàng gắn bó với thập giá anh em đang mang: người thân cô đơn, người yếu đau, người chịu bất công. Khi chia sẻ khổ đau của người khác, chúng ta trở thành chứng nhân sống cho tình yêu Phục Sinh, vì Phục Sinh chỉ có ý nghĩa trọn vẹn khi chúng ta hiệp thông với nhau.
Cuối cùng, Đức Kitô Phục sinh còn mời gọi chúng ta hướng về tương lai vinh quang: một ngày mai, mỗi tín hữu sẽ được hợp nhất với Ngài trong vinh quang thiên quốc. Nhưng để được phần phúc ấy, ta phải trung thành với hành trình Thập Giá nơi trần thế. Như một ánh sáng le lói trong đêm tối, lòng chúng ta phải luôn hướng về cây Thánh Giá, nơi Thiên Chúa đã tỏ bày tình yêu vô biên. Chỉ có tình yêu ấy mới có thể chiến thắng sự dữ, sự chết và mọi hình thức bách hại.
Lạy Chúa Giêsu Phục sinh, xin ban cho chúng con ơn sức mạnh để can đảm vác thập giá hằng ngày, giữ vững niềm tin vào tình yêu Cha, và sống chứng tá Tin Mừng giữa thế gian. Xin cho chúng con luôn nhận ra sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, Đấng hướng dẫn chúng con trên mọi nẻo đường, để cuộc đời Ki-tô hữu chúng con luôn là lời chứng sống động cho ơn cứu độ và tình thương vô biên của Chúa. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
ĐƯỢC CHỌN VÀ KHÔNG THUỘC VỀ THẾ GIAN
Thật thấm thía khi nhìn lại lời Chúa Giêsu: “Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em.” Những lời này vang lên như một khúc nhạc biền ngẫu giữa đoạn đường đời, đánh thức lòng chúng ta về căn tính sâu xa: chúng ta không phải là sản phẩm của thế gian, nhưng là ân ban của Thiên Chúa chọn lựa.
Cuộc đời của Đức Giêsu chính là bức tranh điển hình cho lời tiên báo hôm nay. Ngài, Mục tử nhân lành, đã tự nguyện hy sinh mạng sống để bảo vệ đàn chiên, để đối đầu với sói dữ và kẻ trộm. Con Đường Thập Giá là nơi Hội Thánh ghi dấu sự xung đột giữa ánh sáng và bóng tối, giữa tình yêu Thiên Chúa và thù ghét thế gian. Khi Thầy bị lên án, bị đánh đập và cuối cùng bị treo trên cây thập tự, chính thế gian đã bộc lộ bộ mặt thâm độc của nó đối với Đấng Thánh.
Người môn đệ của Chúa chẳng thể thoát khỏi chung số phận. Chúa Giêsu đã nói rõ: “Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em. Nếu thế gian ghét anh em, hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước khi ghét anh em.” Không phải vì chúng ta yếu đuối mà bị đàn áp, nhưng chính vì chúng ta trung thành với Chân Lý, vì chúng ta không thuộc về thế gian ấy. Từ bỏ thế gian không có nghĩa là trốn tránh thế gian, mà là mang trong mình lòng can đảm sống Tin Mừng ngay giữa thế giới đầy cám dỗ và hận thù.
Hơn hai mươi thế kỷ trôi qua, cuộc bách hại Kitô hữu chưa bao giờ ngừng. Con số 70 triệu anh em chúng ta đã chết vì đức tin là minh chứng đau đớn cho mối thù ghét không khoan nhượng của thế gian. Trong thế kỷ XX, hơn 45 triệu người đã trao lại mạng sống để giữ vẹn lòng tin. Họ là những chứng nhân âm thầm, lặng lẽ, nhưng tiếng vọng hy sinh ấy mãi vang xa, tiếp sinh lực cho Hội Thánh giữa giông tố.
Chúng ta, những môn đệ hôm nay, được mời gọi nhận diện rõ ràng hai chiều kích của sứ mạng: vừa ở trong thế gian, vừa không thuộc về thế gian. Chúa Cha không xin Cha cất chúng ta khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ chúng ta khỏi gian ác; đồng thời, Ngài sai chúng ta vào trong thế gian để biến đổi nó. Đó là bí quyết mầu nhiệm: sống giữa thử thách, nhưng không ngã lòng. Sống giữa hận thù, nhưng vẫn yêu thương không mệt mỏi.
Mỗi ngày, thế gian vẫn ngấm ngầm gieo rắc những giá trị ngược chiều Tin Mừng: chủ nghĩa hưởng thụ, tham lam, ích kỷ, bạo lực. Những giá trị ấy đang chực chờ để cám dỗ, đánh lừa những ai thiếu tỉnh thức. Nhưng nếu chúng ta khắc sâu lời Chúa: “Anh em không thuộc về thế gian”, thì bất chấp phong ba, chúng ta vẫn đứng vững. Hãy nhớ, càng thân thiết với Chúa, chúng ta càng dễ trở thành mục tiêu của hận thù; nhưng chính trong gian nan, lòng tin của chúng ta lại được mài giũa, tinh luyện.
Lịch sử Giáo Hội không thiếu những ngọn lửa tử đạo để soi sáng con đường tiến bước. Thánh Phaolô đã nói: “Khổ đau sinh ra kiên nhẫn, kiên nhẫn sinh ra đức cậy, đức cậy sinh ra đức mến.” Những thử thách không phải là dấu chỉ Chúa bỏ rơi, nhưng là thang hoa dẫn chúng ta lên cao. Khi bị vu cáo vì sống đức tin, khi bị cô lập vì can đảm nói lên Chân Lý, chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho kẻ thù, tha thứ cho bách hại, và kiên trì bước đi trong tình yêu.
Không thuộc về thế gian còn có nghĩa: không để cho tâm hồn bị trói buộc bởi những dối trá nhất thời. Chúng ta không chạy theo trào lưu, không dấn thân cho những giá trị phai mờ. Thay vào đó, chúng ta mang trong tim chữ “Tin” của Phúc Âm, truyền đi hy vọng, nâng đỡ những ai đang vấp ngã. Dẫu thế gian có phủ nhận, nhạo báng hay bỏ tù, Chúa đã hứa: “Ai giữ lời Thầy, Thầy sẽ gìn giữ người đó.” Lời hứa ấy là bảo đảm chắc chắn hơn bất cứ thỏa hiệp nào thế gian có thể đưa ra.
Giờ đây, chúng ta hít thở bầu không khí của Lễ Vọng Phục Sinh, nơi ánh sáng Phục Sinh xua tan bóng đêm tội lỗi. Sự chết của Chúa chính là khởi đầu cho vinh quang chiến thắng. Ngài đã vác thập giá để rồi từ cõi chết sống lại, chứng tỏ quyền năng tình yêu vượt qua mọi sức mạnh thù địch. Chính trong lễ này, chúng ta cảm nghiệm: dẫu bị thế gian ghét bỏ, dẫu bị bách hại, phản bội, Phục Sinh vẫn là niềm tin vững vàng hơn mọi gian nan.
Hãy để Lời Chúa hôm nay ngấm vào từng nhịp tim: chúng ta là những kẻ được Chúa chọn, được tách ra khỏi thế gian, để làm chứng cho Chân Lý. Mỗi ánh mắt chúng ta trao đi, mỗi lời chúng ta thốt ra, mỗi việc lành chúng ta thực hiện, là lá thư Phúc Âm viết giữa lòng nhân loại. Đừng sợ hãi trước con mắt xét đoán của thế gian, bởi chúng ta mang niềm xác tín: tình yêu của Chúa quyền năng đang đồng hành và gìn giữ.
Cuộc đời Kitô hữu là hành trình giữa hai bờ: bờ thế gian và bờ vĩnh cửu. Khi chúng ta dấn thân sống Tin Mừng bất chấp khó khăn, chúng ta xây dựng cho mình kho tàng trên trời, nơi không bao giờ lỗi thời. Thánh Phaolô nhắc nhở: “Đức mến chiên ngang cho đến hiến thân” mới là dấu chỉ chân thật của môn đệ Chúa.
Vậy, trong ngày lễ hôm nay, khi nghe lại lời Giêsu: “Thế gian ghét anh em vì anh em không thuộc về thế gian,” chúng ta hãy xác tín: chính nhờ lời mời gọi ấy, chúng ta được mời gọi bước vào mối tương quan thân tình với Thiên Chúa. Dẫu thế gian có quay lưng, chúng ta vẫn cầm vững ngọn cờ Tin Mừng, và như Chúa Giêsu đã hứa, sự Phục Sinh dẫn đưa chúng ta vào vinh quang bất diệt.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con nhận ra giá trị thực sự của thân phận được chọn, biết khước từ thế gian và dấn thân can đảm làm chứng cho Chân Lý. Xin cho lời cầu nguyện và hy sinh của chúng con hôm nay trở thành ngọn lửa sưởi ấm thế gian, để nhờ chúng con, nhiều người hơn được mời gọi vào Hội Thánh, và cùng tiến bước về Nhà Cha trên trời. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
ĐƯỢC CHỌN GIỮA DÒNG THẾ GIAN: BỨC THƯ YÊU THƯƠNG VÀ THỬ THÁCH ĐỨC TIN
Chúa nhật hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm lời Chúa Giêsu dành cho các môn đệ thân tín: “Nếu anh em thuộc về thế gian, thì thế gian yêu thích những gì của nó; nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em ra khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em” (Ga 15, 19). Không chỉ là một lời cảnh báo, đó còn là bức thư yêu thương, nhắc nhớ chúng ta về căn tính đích thực, về ơn gọi được Chúa chọn và tách ra khỏi những ràng buộc tầm thường của thế gian.
Qua bốn câu ngắn gọn trong Tin Mừng hôm nay, từ “thế gian” (κόσμος) vang lên sáu lần, mang năm tầng nghĩa: vũ trụ, trái đất, nhân loại, nhóm chưa tin và nhóm thù ghét. Nét độc đáo trong thần học Gioan cho thấy thế gian không chỉ là khung cảnh vật lý, mà còn là trạng thái tinh thần xa lánh Thiên Chúa, chất chứa kỳ vọng hẹp hòi và định kiến đau thương. Khi Chúa Giêsu khẳng định: “Thế gian đã ghét Thầy trước” (Ga 15, 18), Ngài tiết lộ chân lý hiển nhiên: hễ thuộc về sự thật, thuộc về Tình Yêu, thì sẽ gặp chống đối, hiểu lầm, thậm chí bách hại.
Chính Ngài, Đấng Tỏ Lộ Tình Yêu Thiên Chúa, đã sống trọn vẹn tình trạng “bị thế gian ghét” khi loan báo công lý, chữa lành, thức tỉnh lương tâm. Và nếu Chúa Con không bị thế gian chấp nhận, huống chi chúng ta, những môn đệ yếu đuối, những kitô hữu chỉ mới khao khát bước theo dấu chân Ngài. Bởi thế, mỗi khi gặp thử thách, mỗi khi cảm nhận ánh mắt dè bỉu, lời chỉ trích vô căn cứ, chúng ta hãy nhớ lại: “Thầy đã chọn, đã tách anh em ra khỏi thế gian” để sống cho Nước Trời, sống cho một Tình Yêu vượt lên trên những quy chuẩn tạm thời vốn đang thống trị thế gian này.
Niềm xác tín đó bắt nguồn từ hiệp thông mật thiết giữa Con và Cha. Trong lời cầu nguyện hiến tế (Ga 17), Chúa Giêsu tỏ bày cho Cha Ngài: “Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như chính Con đây không thuộc về thế gian” (Ga 17, 14). Chúng ta được kéo ra khỏi cõi vô thường, như những hạt men thấm vào khối bột giữa đời, để làm dậy lên hành động bác ái, tha thứ, khiêm nhường, bất chấp sự thù ghét và bách hại.
Thế gian thù ghét khi nghe lời mời gọi hoán cải, khi nhìn thấy tấm gương hy sinh vô điều kiện, và khi phải đối diện với lẽ sống cao cả của Tin Mừng. Một môn đệ kitô hữu thực sự là người không chỉ “tin” trong tư tưởng, mà còn “theo” và “sống” bằng mọi cử chỉ, lời nói và thái độ. Đi theo Chúa Giêsu, nghĩa là dám buông bỏ danh vọng, tiền tài, thậm chí những ước mong riêng tư để hiến thân cho anh chị em, nhất là những kẻ bị bỏ rơi, kẻ bị chối từ.
Thử thách đầu tiên của môn đệ là nhìn nhận thân phận mình: được Chúa chọn, khỏi phải chứng minh mình xứng đáng bằng những thành tích thế gian; nhưng đồng thời chúng ta cũng mang trách nhiệm lớn lao là thể hiện Tình Yêu ấy giữa một thế giới đầy rẫy những toan tính vị kỷ. Khi thế gian chỉ chăm chú vào việc “ăn ngon, mặc đẹp, giả danh là giàu có”, thì kitô hữu được mời gọi “ăn uống lời Chúa và chắt chiu của cải vô hình trong trời cao” (x. Lc 12, 33).
Lời Chúa hôm nay là lời mời gọi tỉnh thức: đừng để bản thân bị cuốn theo phong trào dư luận, cảm xúc bồng bột, hay thậm chí mạng xã hội đặt ra. Tinh thần thế gian không chỉ đến từ bên ngoài, mà còn tiềm ẩn trong nội tâm mỗi chúng ta, qua những tham vọng nhỏ nhen, những thói quen ích kỷ, và cả những quy kết vội vàng, dễ dãi. Do đó, để không “thuộc về thế gian”, chúng ta cần liên tục trở về với nguồn mạch ân sủng: cầu nguyện, lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể, sống Lời Chúa như hơi thở, để luồng sinh khí thần linh liên tục thanh tẩy và củng cố đời sống nội tâm.
Căn tính được Chúa tách ra khỏi thế gian còn đòi hỏi lòng dũng cảm sống công chính, ngay cả khi điều đó dẫn đến cô đơn hay bị hiểu lầm. Các vị tử đạo và nhiều thánh nhân trong lịch sử Hội Thánh đã chứng minh: khi tín hữu can đảm làm chứng cho Tin Mừng, kể cả đến bước hy sinh tính mạng, thì gương sáng ấy còn thu hút hơn mọi chiến dịch quảng bá. Thế gian có thể ghét chúng ta, nhưng chính trong sự thù ghét ấy, hạt giống Tin Mừng sẽ nảy mầm trong lòng kẻ thù nghịch, nhờ Chúa can thiệp.
Những ai thực sự “không thuộc về thế gian” sẽ thấy mình được liên kết chặt chẽ với Chúa Giêsu và Cha Ngài, như Ngài khẳng định: “Cha Con là một” (Ga 10, 30). Đó là mối hiệp thông siêu việt, chạm đến tận căn nguyên sự sống, nơi chúng ta được gọi làm con trong Chúa Con và Chúa Cha. Khi viên mãn tình yêu đó, chúng ta không còn sợ hãi trước thử thách, bởi “tình yêu vượt thắng mọi sợ hãi” (1 Ga 4, 18).
Hơn thế nữa, sứ điệp yêu thương Chúa Giêsu ban truyền: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12), trở thành tiêu chí phân biệt con cái Thiên Chúa với thế gian. Thế gian có thể làm việc thiện, có thể bố thí, có thể tự hào về công trạng nhân ái, nhưng chỉ khi hành động ấy gắn liền với động lực yêu mến Thiên Chúa và phục vụ vô vị lợi, thì mới thực sự là dấu chỉ Nước Trời. Môn đệ kitô hữu không nhìn người anh em như “đối tượng” để lấy tiếng, mà như “đối tác” để đồng tiến trong hành trình cứu độ.
Vậy chúng ta, những tín hữu hôm nay, có đáp lại lời mời gọi dứt khoát ấy không? Hãy chớp lấy từng phút giây trong đời sống thường nhật: tại gia đình, nơi cơ quan, trong cộng đồng, để làm chứng cho Tình Yêu Thiên Chúa. Hãy tập lắng nghe, chứ không chỉ nói; tập quên mình, chứ không chỉ đòi hỏi người khác phục vụ mình; tập tha thứ, chứ không chỉ ghi khắc lỗi lầm.
Và khi thấy mình bị ngăn cản, bêu xấu, hay thậm chí bị bỏ rơi, chúng ta đừng vội đau khổ, bởi đó là dấu chỉ rõ ràng ta đang chạm đến chân lý và làm chứng cho Tin Mừng. Hãy coi đó là vinh dự, vì được “trải dài trên thảm đỏ bách hại” như Chúa Giêsu đã trải qua, và được mời gọi bước vào vinh quang phục sinh.
Cầu nguyện kết thúc, chúng ta hãy xin Chúa ban ơn: đức tin vững vàng, lòng dũng cảm quảng đại và tình yêu bền bỉ, để luôn nhận thức rõ: “Thầy đã chọn, đã tách anh em ra khỏi thế gian.” Nhờ đó, chúng ta sẽ giữ được tâm hồn thanh thoát, phó thác và không ngừng sống trong niềm vui của ơn cứu độ, dù giữa dòng đời còn đầy thử thách và bách hại.
Lm. Anmai, CSsR
HÀNH TRÌNH TRONG BÓNG TỐI VỀ ÁNH SÁNG
Khi suy ngẫm về lời Chúa hôm nay, chúng ta phải tự hỏi: điều gì đang xảy ra nơi tâm hồn mình, khi ta tưởng rằng lớn lên trong Chúa Kitô sẽ được thế gian yêu mến, mà thực tế lại có thể phải đối diện với sự thù ghét, hiểu lầm và bách hại? Có lẽ chúng ta đã quen với hình ảnh đám đông tung hô, với cung điện rực rỡ nơi vinh quang, nhưng chính sự lạ lùng của Tin Mừng là nơi Ngài được vinh danh, lại chính là nơi Ngài chịu đóng đinh, nơi Ngài bị từ chối và bách hại.
Cứ thử hình dung: Đấng được sáng tạo hoàn hảo, Đấng là Ánh Sáng đích thực, lại bị thế gian che phủ trong bóng tối của tội lỗi. Sự thánh thiện của Ngài không mang lại thứ vinh quang trần thế, mà khiến thế gian run sợ, bởi ánh sáng soi rọi phơi bày mọi chỗ tối tăm chất chứa trong lòng người. Khi dân Do Thái, khi các thượng tế và quan Pharisêu không thể chịu nổi sự đơn sơ và trong trẻo của Ngài, họ đã tìm mọi cách vây bắt, vu khống, kết án. Sự hoàn hảo không làm họ ngưỡng mộ mà lại kích động sự ghen ghét, vì tội lỗi sợ bị phơi bày.
Nếu chúng ta có mặt bên bờ hồ Giu-đe, chứng kiến ánh mắt của kẻ bắt bớ, nghe tiếng roi da quất lên làn da của Ngài, chắc hẳn sẽ rung lên nỗi kinh hoàng: làm sao Đấng nhân lành này lại phải chịu những hành vi tàn ác đến thế? Và trong phút chốc, chúng ta có thể hoang mang: đâu rồi hình ảnh Thiên Chúa quyền năng, đâu rồi tình yêu đệ nhất mà Ngài mong ta thưa: “Lạy Cha chúng con”? Nhưng chính trong những cơn tối đó, Thiên Chúa cho chúng ta thấy một chân lý vượt lên trên và xa hơn bất cứ tri thức trần thế nào: tình yêu không phải là quyền lực bắt buộc, mà là tự do trao ban; sự chối từ không làm mất giá trị của Người, mà là chứng từ cho lòng can đảm hy sinh; và sự chết không phải là hết, nhưng là cửa ngõ mở ra cõi sống vinh quang.
Đức Giêsu đã nói: “Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà”. Khi Ngài chấp nhận con đường đau khổ, chấp nhận đón nhận tiếng la ó, sỉ nhục, thì chính Ngài cũng nhắn nhủ chúng ta: nếu muốn lớn lên trong nhân dạng Kitô hữu, chúng ta phải sẵn sàng cùng Ngài bước qua vũng lầy khổ đau. Đó không phải một lời cảnh báo bi quan, nhưng là ân huệ lớn lao: biết mình cùng chia sẻ số phận với Đấng Thánh, để thấy được Ngài đồng hành, nâng đỡ và biến mọi khổ đau thành cánh cửa dẫn vào ân sủng.
Chấp nhận bách hại không có nghĩa là đi tìm khổ đau, mà là nhìn nhận khổ đau khi nó ập đến, như một “cú hích” thức tỉnh chúng ta khỏi giấc ngủ ngọt lịm của ích kỷ. Khi ta bị hiểu lầm, bị kỳ thị vì giữ đạo, đó chính là lúc ngọn lửa đức tin được thử lửa, để chứng tỏ chúng ta không chỉ thờ một hình ảnh Chúa thuận tiện, mà dám yêu thương đến cùng, dám trung thành ngay trong hoạn nạn. Trong bóng đêm của thế gian, ta như ngọn nến bé nhỏ, nhưng khi kiên trung thắp sáng, ta lại trở thành nhân chứng sống động cho Đấng là Ánh Sáng thật.
Hãy nhớ, bách hại không phải dấu hiệu của thất bại, nhưng là dấu chỉ của sự kết hiệp sâu sắc với Chúa Kitô. Khi các Tông đồ bị bắt bớ, họ không bỏ trốn; khi các tín hữu đầu tiên chịu tử đạo, họ không kêu trách; họ nhận ra rằng mỗi vết thương thể xác chính là dấu in tình yêu Thiên Chúa trên tâm hồn mình. Chúng ta cũng được mời gọi nhìn vào vết thương ấy với đôi mắt của đức tin: vết thương bề ngoài chỉ là vẻ tạm, còn vết thương tâm linh được Thiên Chúa mài giũa, uốn nắn, để gọt giũa nên hình ảnh Con Ngài.
Thế gian có thể hiểu lầm, có thể khinh rẻ, nhưng Thiên Chúa Cha thì không. Cha đã dành sẵn cho chúng ta một tương lai vinh quang, một áo cưới rực rỡ, một ngai vàng muôn thuở. Khi Chúa Giêsu đứng vững trước bách hại và đối mặt với cái chết, Ngài không hờn oán, không ngã lòng, mà trao phó lại cho Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Đó là đỉnh cao của tình yêu: tha thứ và hy vọng. Cách Ngài biến chết thành sống, ngục tù thành đường thăm viếng, vinh quang phục sinh chính là minh chứng cho lời hứa vững chắc: trong bóng tối nhất, Ánh Sáng vẫn chiếu soi, sự dữ không thắng được tình yêu.
Chúng ta, những môn đệ của Chúa Kitô, khi nhìn vào thập giá, đừng chỉ thấy đau thương, nhưng còn thấy lòng chí thiết của tình Cha dành cho Con; khi nghe tiếng gió bách hại thổi, đừng chỉ nghe âm thanh của đe dọa, nhưng còn cảm nhận tiếng Thánh Thần thì thầm: “Hãy cứ thắp sáng ngọn nến đức tin”. Mỗi thử thách, mỗi tiếng chê trách, mỗi vết thương của lòng tự ái khi bị chạm đến, đều trở thành dịp mời gọi ta chọn Chúa hơn tất cả, chọn phục vụ hơn quyền lực, chọn hy sinh hơn an toàn.
Vậy hôm nay, hãy để lời Chúa vang vọng nơi lòng: “Bạn có muốn trở nên như Thầy hay không?”. Không phải để chúng ta mặc áo choàng vàng son, mà để chúng ta mặc lấy tấm áo đẫm máu và nước, ký hiệu của sự chịu đựng và phục sinh. Chúa đang mời gọi mỗi người bước vào hành trình vinh quang qua bóng tối, để nhận ra: chỉ có qua thập giá, ta mới gặp gỡ tột đỉnh của tình yêu, và vì tình yêu, ta được sống muôn đời.
Xin cho chúng ta can đảm chấp nhận mọi “bách hại” như dấu tích của sự lựa chọn cao cả, xin cho chúng ta luôn tin rằng, trong tay Chúa Cha, mọi khổ đau đều được chuyển hóa thành vinh quang, và trên con đường bước theo Chúa Kitô, Ánh Sáng Phục Sinh đang chờ đón chúng ta – không chỉ trong mai sau, mà ngay giữa đời này, mỗi khi ta dám sống như Ngài, yêu như Ngài và hy sinh như Ngài. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
TÌNH YÊU VÀ SỰ THÙ GHÉT: DẤU ẤN CỦA MÔN ĐỆ
“Yêu nhau yêu cả đường đi / Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng.” Câu tục ngữ Việt Nam vang lên như một tiếng vọng sâu xa về mối liên kết nhân sinh, nơi tình cảm dường như luôn bị chi phối bởi bối cảnh và xu hướng chung. Thế nhưng, hôm nay, Tin Mừng lại hé mở cho chúng ta một chiều kích khác: tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa và sự thù ghét đến từ thế lực mù quáng của thế gian. Trong đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan, Chúa Giêsu cảnh báo: “Nếu thế gian ghét anh em, thì anh em hãy biết rằng, nó đã ghét Thầy trước.” Sống đức tin không chỉ là niềm vui, mà còn là con đường song hành với thử thách, nơi môn đệ phải sẵn sàng nhận lấy sự ghét bỏ như chính Thầy của mình đã kinh qua.
Chữ “thế gian” trong Tin Mừng Gioan không chỉ đơn thuần ám chỉ toàn cõi trần gian được Thiên Chúa dựng nên. Đó là biểu tượng cho một quyền lực ngầm của cái ác, của những xu hướng tách rời Thiên Chúa, dùng dối trá và tham sân để thao túng lòng người. Thế gian thích nép mình trong bóng tối, nơi mọi sự thật dễ bị che giấu, còn lòng người thì dễ bị pha tạp bởi dục vọng. Từ “kosmos” – thế gian – xuất hiện 78 lần trong Gioan, nhưng không phải khi nào cũng mang nghĩa vũ trụ sáng tạo: có khi nó nói đến thế lực khép kín, đánh mất mối tương quan chân thật với Thiên Chúa, rồi quay lưng lại với ánh sáng và sự thánh thiện.
Tin Mừng Gioan vốn tràn ngập ngôn ngữ của tình yêu: một chuỗi diễn từ thắm thiết về tương quan hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con, rồi Chúa Con với các môn đệ. Âm hưởng ấy lên đến đỉnh điểm trong lời mời gọi: “Anh em hãy yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Song, đến hôm nay, khi Chúa Giêsu nhắc đến sự ghét bỏ của thế gian, chúng ta nhận thấy một phân cách chói chang: với Thiên Chúa là yêu, nhưng với thế gian sẽ là ghét. Âm thanh tình yêu, rồi đột ngột vang lên từ sự thù ghét, như một phản chiếu cảnh báo rằng bước theo Chúa không chỉ có nắng hồng, mà còn có bóng tối dày đặc.
Chúa Giêsu đã đến trần gian, mang theo ánh sáng và sự thật, nhưng Người cũng đã nếm trải sự ghét bỏ đến cùng cực: bị bắt bớ, bị xử án bất công và chịu chết trên thập giá. Điều này không phải là một lỡ lầm hay sai sót trong chương trình cứu độ, nhưng là hệ quả tất yếu khi Sự Thật đụng chạm vào vỏ bọc giả dối. Ánh sáng chiếu rọi vết nhơ, bộc lộ tham nhũng của tâm hồn. Như Chúa Giêsu nói: “Rửa tay rồi mà lòng vẫn ô uế, vì điều ác vẫn ẩn náu trong lòng người.” Cho nên, hành trình môn đệ là đi vào bước chân Thầy: chấp nhận bị thế gian khước từ, bị cho là ngốc nghếch khi mang theo con đường Tin Mừng đòi sống hiệp nhất, bác ái và chân thật.
Lý do sâu xa khiến thế gian ghét môn đệ chính là vì “thế gian yêu những gì thuộc về nó.” Khi đồng hóa tiền bạc với giá trị tối thượng, khi tôn sùng thành công trần tục và phủ nhận đức ái, thì sự xuất hiện của người môn đệ – với hành trang nghèo khó, khiêm nhường và trao hiến – trở thành sự vạch trần lối sống ảo tưởng. Môn đệ tự thân đã là lời tố cáo: “Hãy quay về con đường bác ái, đừng chạy theo phù vân.” Khi ý thức mình thuộc về Đấng Kitô, người môn đệ không còn chung thủy với khuôn mẫu thế gian, thì tất nhiên sẽ gặp phải sự mai phục của những thế lực tìm giữ nguyên trạng, sợ bị lột mặt nạ.
Chịu thù ghét một cách bất công, thì đáng lẽ là một điều nhức nhối, nhưng với tín hữu, đó lại là cao điểm của chứng tá đức tin. Bởi chính trong nỗi nhục nhã, người môn đệ nhắc nhớ: “Ta không phải thuộc về thế gian, nên đừng ngạc nhiên khi bị người ngoài chối bỏ.” Sống đức tin là một cuộc mạo hiểm, nơi mà mạng sống tinh thần là mảnh đất gieo trồng hạt giống Tin Mừng. Chỉ khi hạt giống từng ngày nằm im trong đất tối, chịu thử thách, mới có thể bật mầm, vươn lên thành cây trổ bông.
Ngay cả Giáo Hội sơ khai – những người đầu tiên chết vì danh Chúa – cũng đã nếm trải nỗi buồn của sự bỏ rơi và khổ hình. Phaolô đã nói: “Chúng ta bị đày đọa khắp nơi, nhưng không bị bỏ rơi; chịu khó khăn, nhưng không tuyệt vọng; bị bách hại, nhưng không bỏ đi; bị ngã, nhưng không bị diệt.” Suốt chiều dài lịch sử, bao thế hệ tín hữu đã đổ máu cho đức tin, không vì ước vọng vinh quang trần thế, nhưng vì một tình yêu vượt trên mọi đời khổ. Chính nơi đó, tình yêu Chúa được minh chứng một cách hùng hồn.
Có lẽ chúng ta dễ dàng bị cám dỗ bởi ý muốn được thế gian tán dương: người môn đệ an toàn khi không dấn thân, không khác biệt, không làm chói mắt. Thế nhưng, sự dễ dàng ấy lại là dấu hiệu của sự thỏa hiệp, nơi đức tin bị pha loãng thành một thứ lý tưởng nhu nhược. Chính khi gặp nghịch cảnh, bị hiểu lầm, bị xa lánh, chúng ta mới nhận ra giá trị đích thực của Tin Mừng. Bîng khuôn thờ ơ, thế gian tự phong mình thành chúa tể, rồi cay đắng khi bị lột trần là bạo chúa hư danh.
Mỗi bước chân bước theo Chúa Giêsu đều phải mang trong mình quyết tâm từ bỏ. Từ bỏ quyền lực trần gian, từ bỏ ham muốn tự tôn, từ bỏ tính an toàn pha lẫn sợ hãi. Bởi chỉ khi dám chấp nhận thân phận “tội nhân được cứu rỗi” trong tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta mới có đủ can đảm để đối diện với con mắt khinh miệt. Khi ấy, sự thù ghét của thế gian không còn gieo rắc lo sợ, nhưng trở thành vinh quang tinh thần, vì ta được đồng hóa với Đấng chịu đóng đinh.
Và trên hết, tình yêu Chúa Cha dành cho Chúa Con đã lan tỏa đến chúng ta chính là động lực vững chắc. Dù “thế gian ghét Thầy trước,” nhưng tình yêu ấy không bao giờ bị bào mòn. Chính tình yêu đã thắng thù ghét, đã cho chúng ta thấy thập giá không phải điểm kết thúc, mà là hành trình dẫn đến phục sinh. Mỗi vết tích đau đớn trở thành nơi ươm mầm hy vọng, mỗi giọt nước mắt bất công hóa thành mạch suối ơn cứu độ.
Nhìn lại hành trình của chính mình, bạn và tôi được mời gọi mang lấy dấu ấn môn đệ: sẵn sàng chịu thương tích bởi lòng thiện sinh cầu, nhưng không chịu khuất phục bóng đêm của thế gian. Hãy để lời tiên báo của Chúa Giêsu vang vọng trong tim: “Nếu họ đã bắt bớ Thầy, thì cũng sẽ bắt bớ các con.” Đó không phải là lời hăm dọa, nhưng là bảo chứng cho tình yêu vững bền. Bởi chỉ khi ta đứng vững trước gian nan, tình yêu của Thiên Chúa càng tỏ sáng rực rỡ.
Ước gì mỗi người chúng ta can đảm bước đi trên con đường hẹp đầy hoa lẫn gai. Đừng sợ bị thế gian thù ghét, vì đó chính là dấu chỉ bạn đã thực sự thuộc về Chúa Giêsu. Trong bóng tối khắc nghiệt nhất, hãy nhớ rằng sự thật và tình yêu luôn chiến thắng. Và chính khi chúng ta sát cánh với Thầy trên con đường đau khổ, chúng ta sẽ được dự phần vào vinh quang phục sinh, nơi “thế gian không thể lấy mất lòng chúng ta an bình.” Amen.
Lm. Anmai, CSsR
ÂM VANG CỦA NGƯỢC ĐÃI
Chúng ta bước vào Thánh Lễ Thứ Bảy Tuần V Phục Sinh với tâm hồn vừa ngập tràn hy vọng vừa thấu hiểu sâu sắc những khó khăn của kiếp người. Tin Mừng Gioan hôm nay dạy chúng ta bài học căn bản về mối tương quan giữa môn đệ và thế gian: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước.” Điều này không phải chỉ là lời an ủi trống rỗng, nhưng là ánh sáng soi tỏ con đường chúng ta chọn đi – con đường của Ánh Sáng giữa bóng tối.
Chúa Giêsu không chỉ là Đấng truyền đạt chân lý, mà chính Ngài đã sống trọn vẹn trong khổ đau và ngược đãi vì Ngài không thuộc về thế gian. Ngài là Đấng vô tội, nhưng đã chịu bắt bớ, bị vu oan và kết án tử hình nơi thập giá. Vì Ngài vốn không thuộc về thế gian đầy lừa dối, ghen ghét và chia rẽ, nên thế gian đã “ghét Ngài trước.” Và chúng ta, khi muốn theo sát Ngài, cũng không tránh khỏi những thử thách tương tự.
Môn đệ Chúa không thể mong được thế gian chấp nhận, bởi vì thế gian chỉ yêu quý những giá trị của nó: tội lỗi, ích kỷ, đố kỵ, thù hận. Khi một người can đảm sống theo Tin Mừng, sống cho chân lý và bác ái, thì ánh sáng chân lý ấy đụng chạm vào bóng tối ích kỷ vốn ẩn mình trong lòng người. Vì thế, thay vì hoan nghênh, thế gian tìm cách dập tắt ánh sáng ấy, bách hại và loại trừ những ai dám sống khác biệt.
Nhưng chính trong những giây phút thập giá, Chúa Giêsu đã biến khổ đau thành biểu tượng tình yêu vô bờ bến. Mặc dầu Ngài bị ngược đãi, Ngài vẫn nói lời tha thứ và mở lòng cứu độ. Từ trên đỉnh đồi Can-vê, tiếng xé lòng của Thầy vang vọng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” Chúng ta nhìn thấy trong Ngài một con đường duy nhất: can đảm chịu đựng và yêu thương đến cùng.
Khi muốn thuộc về Chúa, chúng ta phải chọn: hoặc làm nô lệ cho thế gian và xác thịt, hoặc làm môn đệ của Ngài, sẵn sàng bị thế gian ghét bỏ. Không có con đường thứ ba. Đức tin của chúng ta không dựa trên cảm xúc thoải mái hay danh vọng trần gian, mà dựa trên tình yêu tự hiến nơi Thập giá và sự phục sinh vinh quang. Ai chịu cùng Chúa Chịu Khổ, sẽ cùng Ngài vươn lên trong vinh quang.
Chúng ta hãy nhìn lại hành trình đức tin của chính mình. Có khi nào ta cảm thấy bối rối vì những lời dị nghị, những ánh mắt khinh bỉ của thế gian? Khi công bố đức tin giữa gia đình, bạn bè hay đồng nghiệp, có ai trong chúng ta không từng chạnh lòng vì bị hiểu lầm, bị cười nhạo hay bị xa lánh? Đó chính là dấu chỉ cho thấy ta đang sống khác với thế gian, đang mang trong mình thân phận con cái sự sáng.
Thật vậy, dấu chỉ lớn nhất cho thấy chúng ta không thuộc về thế gian là khi chúng ta bị bách hại vì sống công chính. Nếu con tim chúng ta đau nhói khi phải tuyên xưng đức tin, thì đó chính là tấm gương cho thấy lẽ thật của Tin Mừng vẫn còn giá trị, vẫn giữ sức mạnh thay đổi lòng người. Vì thế, mỗi vết thương do thế gian gây ra không phải là thất bại, nhưng là ân huệ để chúng ta xác tín thêm về ơn gọi theo Chúa.
Chúa Giêsu hứa ban cho chúng ta Thánh Thần để trở thành chứng nhân cho Ngài. Thánh Thần sẽ gìn giữ chúng ta – nhưng không phải để xóa tan mọi khó khăn trần gian, mà để ban ơn vững tin và can đảm. Ngài dạy: “Thật thế, Thầy sai anh em đi như chiên con đi giữa bầy sói.” Anh em không được hứa hẹn cuộc sống dễ dàng, nhưng được ban ơn của Đấng chiến thắng sự dữ.
Chúng ta đừng quên rằng chính Chúa đã trải qua bóng tối chết chóc. Trong vườn Ghết-sê-ma-nê, Ngài đã cảm nhận mưa đổ của mồ hôi máu, đêm dài của lo âu kinh hoàng. Nhưng Ngài đã chọn vâng phục: “Lạy Cha, nếu có thể, xin để chén này qua khỏi con; nhưng xin đừng theo ý con, mà theo ý Cha.” Từ khổ giá đến mồ trống, Ngài đã chiến thắng bằng tình yêu và sự vâng phục. Chính tình yêu ấy vẫn vang vọng trong cuộc đời chúng ta.
Chúng ta hãy xin Chúa ban cho lòng can đảm để đón nhận mọi bản án vô lý, mọi ánh mắt phán xét, mọi lời vu khống. Đó không phải là tai ương, mà là con dấu của môn đệ đích thực. Khi chúng ta bị ghét bỏ, bị hiểu lầm, thì chính lúc ấy chúng ta được mời gọi hướng về Thập giá, để hàn gắn vết thương của Ngài và dự phần vào công cuộc cứu độ.
Không ai sống trong bóng tối mà không khao khát ánh sáng. Khi cuộc đời bế tắc, ta mơ đến một chân lý bất diệt. Nhưng thế gian sợ hãi ánh sáng, vì ánh sáng vạch trần tội lỗi và điều khiển lương tâm. Vì thế, môn đệ Chúa không thể mong được chào đón. Tuy nhiên, chúng ta hãy ghi nhớ: sự thánh thiện của chúng ta không phải để khoe khoang, nhưng để soi dẫn người khác ra khỏi bóng tăm tối.
Chúng ta có thể cảm thấy yếu lòng khi đối diện lời thù ghét. Nhưng Thiên Chúa không để chúng ta đơn độc. Với mỗi bước chân trên thập giá, Ngài ban cho chúng ta một ơn trung thành. ‘Không một sợi tóc trên đầu các con bị rơi xuống nếu không theo ý Cha.’ Sự quan phòng của Cha trên trời sẽ gìn giữ chúng ta, ngay giữa bão tố thế gian.
Thiên Chúa không muốn chúng ta chỉ làm chiên im lặng. Ngài gọi chúng ta trở thành muối của đất, men của thế gian. Nhưng muối phải giữ mặn và men phải lên men; nếu không, sẽ trở thành vô dụng. Để giữ mặn, chúng ta phải sẵn sàng nếm trải vị đắng của hiểu lầm và khổ đau. Đó là giá phải trả để làm chứng cho Con Đường, Sự Thật và Sự Sống.
Con đường của môn đệ cũng là con đường của phục vụ. Khi chịu bách hại, chúng ta được mời gọi chạnh lòng trước nỗi thống khổ của tha nhân, để phục vụ và nâng đỡ. Sự bách hại không làm cứng lòng ta, mà hóa thành lẽ mời gọi tha thứ và yêu thương. Chính trong lòng địch thù, Tin Mừng trở nên hấp dẫn nhất, khi ánh sáng của tình yêu chiếu soi.
Thánh Phaolô đã từng nói: “Vinh quang rực rỡ của Thiên Chúa được tỏ lộ trên diện mạo Chúa Kitô chịu khổ.” Mỗi vết thương, mỗi giọt nước mắt, mỗi tiếng thở dài của môn đệ trở thành vinh quang dấu ẩn của Thiên Chúa. Vì thế, khi bị ghét bỏ, chúng ta hãy tự nhủ: đây là vinh quang đang mời gọi ta tham dự vào cuộc Phục Sinh.
Con đường Thập giá dẫn ta vào mầu nhiệm Phục Sinh. Chỉ khi thử thách đến tận cùng, chúng ta mới khám phá được chiều sâu ơn cứu độ. Chúa gọi chúng ta chung số phận với Ngài: “Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em.” Nhưng kế tiếp là lời cam kết: “Tôi không để các con mồ côi; tôi sẽ đến gặp các con.” Ngài đã phục sinh và ban Thánh Thần. Vì thế, đừng sợ bóng tối.
Trong đời sống thường ngày, chúng ta được mời gọi chứng tỏ tình yêu này trong những việc làm cụ thể. Khi gặp ai bị kỳ thị, hãy đứng lên bênh vực; khi ai bị bách hại, hãy cổ vũ và tiếp sức. Hãy để ánh sáng Tin Mừng tỏa lan từ những hành động nhỏ bé, đưa những tâm hồn đang sống trong bóng tối đến với hy vọng và bình an.
Biết bao người trong thế giới hôm nay đang sống dưới ách nô lệ của đam mê, tội lỗi, bạo lực và bất công. Họ phớt lờ tiếng gọi của lương tâm, vì sợ bị “ghét” khi sống khác biệt. Môn đệ Chúa phải dấn thân để níu kéo họ, bằng sự khiêm nhường, lòng xót thương và lời chứng sống động. Chính qua những chứng tá can đảm mà chân lý Tin Mừng được lan tỏa.
Mỗi ngày, chúng ta đều phải quyết định: sống cho thế gian hay sống cho Chúa. Những lựa chọn ấy không phải lúc nào cũng dễ chịu, song chúng kiểm tra đức tin và tình yêu của chúng ta. Hãy nhớ: vận mệnh đời đời của chúng ta phụ thuộc vào quyết định ấy. Chọn Chúa, dù phải chịu bách hại, là chọn ánh sáng bất diệt; chọn thế gian, dù hưởng thụ trước mắt, là từ chối hạnh phúc vĩnh hằng.
Chúng ta hãy cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, xin ban Thánh Thần cho con, để con can đảm sống đúng với tư cách môn đệ, dù bị ghét bỏ hay bách hại. Xin cho con biết vâng phục thập giá, để mỗi vết thương con chịu được quy tụ vào mầu nhiệm phục sinh vinh quang. Giữa thế gian đầy tăm tối, xin cho con là ngọn nến soi đường cho những ai đang lạc bước.” Amen.
Cuối cùng, chúng ta tin chắc rằng: “Ai trung thành chịu khổ với Đấng Chịu Khổ, sẽ hiệp cùng Ngài hưởng vinh quang.” Thế gian có thể ghét chúng ta, nhưng đó chỉ là chiếc mặt nạ hé lộ ơn gọi chúng ta ra khỏi thế gian, để sống hoàn toàn cho Nước Trời. Hãy vững lòng, can đảm và trung thành cho đến cùng, để một ngày kia, chúng ta được cùng Đấng Phục Sinh ngự bên hữu Chúa Cha trong vinh quang bất diệt. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
ÁNH SÁNG CÔNG CHÍNH GIỮA BÓNG TỐI THẾ GIAN
Chúa nhật hôm nay, Giáo Hội mời chúng ta dừng lại trước hình ảnh môn đệ đích thực của Đức Kitô, người không chỉ “theo” Chúa trong ngày nắng ấm thuận hòa, mà còn sẵn sàng đứng dậy nơi bến bờ tối tăm của thế gian, nơi sự thật bị che lấp bởi vỏ bọc mị dân và quyền lực. Trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, Chúa Giêsu đã quả quyết: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng, nó đã ghét Thầy trước” (Ga 15,18). Lời này không chỉ là lời tiên báo về số phận của các môn đệ, mà còn là lời mời gọi mỗi Kitô hữu dám sống thẳng, dám bị ghét, để tỏ mình thuộc về ánh sáng và công lý của Thiên Chúa.
Một Kitô hữu an phận, mơ hồ, dung hòa với thế gian, không thể là môn đệ chân chính của Đức Kitô. Bởi lẽ, người môn đệ chân thành phải can đảm lên tiếng trước bất công, không sợ mất lòng người, không chạy theo danh vọng hay lợi lộc. Họ đồng hành với Chúa trên con đường phê phán giả hình, vạch trần xu nịnh, và trên hết, họ bắt chước gương Chúa là Đấng đã dám dùng dây thừng dẹp tan cảnh buôn bán trục lợi trước Đền Thờ Giêrusalem, dù biết điều đó dẫn đến đối đầu với quyền lực tôn giáo và kinh tế đương thời.
Thế gian luôn có đủ lý do để ghét bỏ sự thật. Những kẻ thích tối tăm sẽ tìm mọi cách bịt miệng ánh sáng: họ nghi hoặc, bêu xấu, bỏ tù, thậm chí ra lệnh giết chết những ai dám nói lên tiếng nói của công lý. Chúa Giêsu đã trải qua tất cả: bị bắt bớ một cách bất công, bị các nhóm biệt phái và kinh sư áp bức, và cuối cùng chịu đóng đinh như một kẻ tội đồ. Nhưng cái chết nơi thánh giá không xóa nhòa sự thật, mà ngược lại, làm bừng lên ánh sáng Phục Sinh, minh chứng rằng sự thật và tình yêu vẫn chiến thắng sự chết.
Khi nói “anh em hãy biết rằng, nó đã ghét Thầy trước”, Chúa Giêsu muốn chia sẻ kinh nghiệm sâu thẳm của Ngài: yêu mến sự thật, dám bước ra công khai vạch trần bất công, chắc chắn sẽ gặp phản kháng khốc liệt của thế gian. Người tín hữu không thể ôm ấp thái độ “vừa lòng đôi bên” hoặc che giấu sự thật vì sợ mất lòng. Bởi như Chúa đã dạy, “Sự thật sẽ giải phóng anh em” (Ga 8,32), nhưng sự thật đó chỉ nói ra bởi những ai dám bỏ mình. Nếu chúng ta giữ im lặng trước gian dối, chúng ta đã thỏa hiệp với bóng tối.
Chính vì thế, muốn là môn đệ của Đức Kitô, chúng ta phải sẵn sàng từ bỏ những lợi ích cá nhân, sẵn sàng chịu khinh miệt, xa lánh, thậm chí bạo lực, như Ngài đã chịu. Đi theo Chúa không chỉ là nhận lãnh những ân sủng, mà còn là chia sẻ thập giá với Ngài: “Ai muốn theo Ta, hãy vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Thập giá hôm nay có thể là sự mất uy tín, mất lợi ích, bị người đời chê cười, hoặc bị hiểu lầm đến tận cùng.
Trong đời sống hàng ngày, có những lúc chúng ta thuộc về trần thế hơn là thuộc về Chúa: khi chúng ta nịnh bợ để cầu lợi, khi chúng ta nể nang không dám nhắc nhở anh em về điều công chính vì sợ mất lòng, khi chúng ta làm ngơ trước các hành vi bất công để giữ hòa khí. Đó là những giây phút thỏa hiệp tạm bợ với bóng tối, khiến chúng ta xa rời ánh sáng Phúc Âm. Và đau đớn thay, chính chúng ta lại trở thành đồng lõa với những kẻ thù ghét chân lý.
Vậy hôm nay, chúng ta được mời gọi canh tân ơn gọi làm môn đệ: sống thẳng thắn, dám đối mặt với sự thật và bất công. Mỗi người trong chúng ta có thể tự hỏi: Tôi còn nương theo trần thế bao nhiêu phần trăm? Tôi đã đặt sự bình an của Thiên Chúa lên trên sự bình an thế gian chưa? Tôi có đủ can đảm để nói lên sự thật, dẫu điều đó có khiến tôi bị ghét mất lòng?
Trong ơn Thánh Linh, chúng ta nhận được sức mạnh để bước đi trên con đường hẹp. Thánh Phaolô nhắc nhở: “Anh em đừng để bóng tối cai trị thân xác mình” (Rm 13,12). Nhờ ơn Chúa, bóng tối không còn có quyền cuối cùng. Khi bị ghét bỏ vì sự công chính, chúng ta không cô đơn; Chúa Giêsu vẫn ở bên, đồng cam cộng khổ, nâng đỡ và ban ơn can đảm cho chúng ta.
Phải chăng hôm nay chúng ta đã quá thụ động, để cho những tiếng nói dối lấn át Phúc Âm trong gia đình, cộng đoàn, nơi làm việc? Thiên Chúa của công lý mời gọi chúng ta lên tiếng: trước lời nói láo, trước các mưu mô gian trá, trước sự áp bức bất công. Những ai cảm thấy nản lòng, hãy nhớ lại hình ảnh Chúa Giêsu băng qua các vùng đất Israel, giảng dạy lòng nhân hậu, chữa lành bệnh tật, vạch trần giả hình, và dĩ nhiên, chịu bách hại cho đến chết.
Ngay ở nơi Thánh Thể, trong cung lòng Mình Máu Thánh Chúa, ta được mời gọi đồng hóa với Chúa: dâng mình như hy lễ, không né tránh thập giá, không sợ bị xã hội lên án. Mỗi lần đến với Bí Tích Thánh Thể, chúng ta được củng cố để sống “không thỏa hiệp” với bóng tối. Bí tích Thánh Thể trao ban cho chúng ta chính Chúa Giêsu Phục Sinh, là nguồn sức mạnh để vượt lên trên nỗi sợ bị ghét.
Anh chị em thân mến, môn đệ thực sự là môn đệ của sự thật. Chúng ta được tuyển chọn và sai đi, không phải để hòa theo dòng chảy thế gian, mà để trở thành muối men, để biến đổi thế giới bằng yếu tố Tin Mừng. Muốn trở thành muối men đó, chúng ta phải dám đứng trước bất công, dám lên án tội lỗi, và quan trọng nhất, dám tự hủy mình để yêu thương đến cùng.
Chúa Giêsu không bảo chúng ta tìm kiếm khinh miệt, nhưng Ngài nhắc nhở rằng: không thể yêu cầu thế gian yêu mình, bởi mình không thuộc về thế gian. Ngài đã chọn chúng ta khỏi thế gian, và bởi thế, thế gian mới ghét bỏ chúng ta. Thế nhưng, trong mọi biến cố, Chúa vẫn mời gọi chúng ta “hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15,9): ở lại, để yêu, để chịu, và để chiến thắng.
Vậy, xin cho chúng ta không an phận, không mặc cả theo thói gian, nhưng luôn vững bước trên đường lối Chúa vạch ra: chân lý, công lý và tình yêu. Xin giúp chúng ta can đảm từ bỏ mọi ích kỷ, để sống vị tha và trung thành. Xin cho chúng ta xác tín rằng, khi bị ghét bỏ vì sự thật, chính là dấu chứng chúng ta đang sống cho Đức Kitô, đang đào sâu mầm mống Nước Trời ngay giữa lòng thế gian.
Lạy Chúa Giêsu, người ta thường nói “sự thật mất lòng”. Chúa đã thấm thía kinh nghiệm này: Chúa bị ngược đãi, bị chết trên thánh giá, chẳng phải vì Chúa gian ác, nhưng chính vì Chúa là Đấng công chính. Chúa là chân lý và là Đấng công chính; Chúa đã không thỏa hiệp với giả dối, với những bê bối của trần thế. Chúa chết vì lòng thù hận của những kẻ giả dối: vì Chúa dám nói thẳng nói thật những giả hình của nhóm biệt phái và nhóm kinh sư, vì Chúa dám dùng dây thừng dẹp cảnh trục lợi, buôn gian bán lận trước Đền Thờ Giêrusalem. Chúa chết vì không mị dân: Chúa không chiều theo thị hiếu của dân chúng, không làm phép lạ cho vua Hê-rô-đê được thỏa tính tò mò.
Lạy Chúa, Chúa dạy con muốn là một Kitô hữu, con không được sống an phận. Muốn nên công chính, con cũng phải bước theo Chúa là chân lý, phải sống thẳng thắn theo gương của Chúa dù có bị thế gian thù ghét, loại trừ. Có những lúc con thuộc về trần thế: khi con nịnh bợ người khác để cầu lợi, khi con ngại nhắc nhở nhau vì sợ mất lòng, khi con nể nhau mà làm điều sai trái phiền lòng Chúa… Đó là những lúc con bỏ Chúa mà thỏa hiệp với trần thế.
Xin giúp con từ bỏ tính an phận, xin ban cho con can đảm sống công chính giữa đời thường, để con dám lên tiếng cho sự thật, dám hiến thân cho tình yêu, và dẫu có bị ghét bỏ, con vẫn vững tin rằng con đang bước theo Chúa – Đấng là Ánh Sáng và là Sự Thật muôn đời. Amen.
Lm. Anmai, CSsR