skip to Main Content

Đức Phanxicô trả lời phỏng vấn về phân cực, về phong chức phụ nữ, các giám mục Hoa Kỳ và về nhiều chủ đề khác

Đức Phanxicô trả lời phỏng vấn về phân cực, về phong chức phụ nữ, các giám mục Hoa Kỳ và về nhiều chủ đề khác

 

Ngày thứ ba 22 tháng 11, năm đại diện của trang America Media đã phỏng vấn Đức Phanxicô tại Nhà Thánh Marta. Linh mục Dòng Tên Matt Malone sắp mãn nhiệm kỳ, linh mục Dòng Tên Sam Sawyer, tổng biên tập sắp tới; bà Kerry Weber, biên tập viên điều hành; nhà báo Gerard O’Connell, đặc phái viên của trang America tại Vatican; và bà Gloria Purvis, người dẫn chương trình “The Gloria Purvis Podcast.”

Tất cả đã thảo luận nhiều chủ đề với giáo hoàng, bao gồm sự phân cực trong giáo hội Hoa Kỳ, phân biệt chủng tộc, chiến tranh ở Ukraine, quan hệ của Vatican với Trung Quốc và giáo huấn của Giáo hội về việc phong chức cho phụ nữ. Cuộc phỏng vấn được thực hiện bằng tiếng Tây Ban Nha với phần thông dịch của nhà báo Elisabetta Piqué.

Đức Phanxicô: Xin cám ơn các bạn đã đến!

Linh mục Matt Malone: Tạp chí America được các tu sĩ Dòng Tên thành lập năm 1909 và chúng tôi đã xuất bản liên tục kể từ đó. Đây là cơ hội đầu tiên chúng tôi được nói chuyện trực tiếp với giáo hoàng, và chúng tôi rất biết ơn. Điều đầu tiên trong tâm trí độc giả chúng tôi, họ rất ngạc nhiên vì cha luôn tỏ ra vui vẻ, hạnh phúc, ngay cả khi gặp rắc rối và khủng hoảng. Điều gì làm cho cha rất vui, thật bình an và hạnh phúc trong thánh chức của mình?

Đức Phanxicô: Tôi đã không biết tôi luôn như vậy. Tôi vui vẻ khi ở bên mọi người – luôn như vậy. Một trong những điều tôi cảm thấy khó khăn nhất khi làm giáo hoàng là không thể ra ngoài đi bộ với mọi người, vì ở đây là không được ra ngoài; không tự do đi ngoài đường phố. Nhưng tôi sẽ không nói tôi hạnh phúc vì tôi khỏe mạnh, tôi ăn ngon, ngủ ngon hay vì tôi cầu nguyện nhiều. Tôi hạnh phúc vì tôi cảm thấy hạnh phúc, Chúa làm cho tôi hạnh phúc. Tôi không có bất cứ điều gì để đổ lỗi cho Chúa, ngay cả khi có những chuyện không tốt xảy ra cho tôi. Không. Trong suốt cuộc đời tôi, Chúa luôn hướng dẫn con đường của tôi, đôi khi có những khoảnh khắc khó khăn, nhưng tôi luôn có  đảm bảo, tôi không đi một mình. Tôi có được đảm bảo này. Ngài luôn bên cạnh tôi. Chúng ta có những lỗi lầm, những tội lỗi; tôi đi xưng tội mỗi 15 ngày – tôi không biết, tôi là như vậy.

Linh mục Sam Sawyer: Trong bài phát biểu của cha trước Quốc hội Hoa Kỳ cách đây bảy năm, cha đã cảnh báo chống lại “chủ nghĩa giản lược chỉ xem thiện hay ác, người công chính hay người tội lỗi” và cha cũng kêu gọi “một tinh thần huynh đệ đổi mới và đoàn kết, hợp tác quảng đại vì lợi ích chung.” Tuy nhiên, kể từ bài phát biểu của cha trước Quốc hội, chúng tôi đã thấy, không chỉ sự phân cực chính trị ngày càng sâu đậm mà cả phân cực trong đời sống Giáo hội. Làm thế nào Giáo hội có thể phản ứng với sự phân cực trong cuộc sống của chính mình và giúp ứng phó với sự phân cực trong xã hội?

Phân cực không phải công giáo. Một người công giáo không thể suy nghĩ cái này hoặc cái kia, hoặc giảm mọi thứ thành phân cực. Cốt tủy của công giáo là hợp nhất điều tốt và điều không tốt. Chỉ có một dân tộc của Chúa. Khi có phân cực, tâm lý chia rẽ nảy sinh, ưu đãi một số người và bỏ lại một số khác. Người công giáo luôn dung hòa những khác biệt. Nếu chúng ta biết nhìn Chúa Thánh Thần hành động như thế nào; trước hết Ngài tạo xáo trộn: chúng ta nhìn buổi sáng lễ Hiện Xuống, những hoang mang, xáo trộn Ngài tạo ra, sau đó Ngài mang lại sự hòa hợp cho Giáo hội, Ngài không giảm mọi thứ chỉ còn một giá trị; đúng hơn, Ngài dung hòa những khác biệt đối lập. Đó là tinh thần công giáo. Càng có nhiều hòa hợp giữa những khác biệt và đối lập thì càng công giáo. Càng có phân cực, thì càng đánh mất tinh thần công giáo và rơi vào não trạng bè phái. Châm ngôn này không phải của tôi, nhưng tôi xin nhắc lại: những gì là con người không phải là người này, người kia nhưng là cả người này người kia và kết hợp những khác biệt. Và đó là cách chúng ta hiểu cách thức công giáo đối phó với tội lỗi, không phải chỉ là: thánh nhân và tội nhân, cả hai cùng nhau.

Phân cực không phải công giáo. Một người công giáo không thể suy nghĩ cái này hoặc cái kia, hoặc giảm mọi thứ thành phân cực. Cốt tủy của công giáo là hợp nhất điều tốt và điều không tốt.

Là điều tốt lành khi tìm nguồn gốc của những gì là công giáo trong những lựa chọn Chúa Giêsu đã làm. Chúa Giêsu có bốn khả năng: hoặc là người biệt phái, người sa-đốc, người esêniô, hoặc người nhiệt thành zêlôta. Đó là bốn thành phần, bốn lựa chọn vào thời đó. Và Chúa Kitô không phải là người biệt phái, người sa-đốc, người esêniô, cũng không là người nhiệt thành zêlôta. Ngài là người khác biệt. Và nếu chúng ta nhìn những lệch lạc trong lịch sử Giáo hội, chúng ta có thể thấy họ luôn đứng về phía những người biệt phái, người sa-đốc, người esêniô hoặc người nhiệt thành zêlôta. Chúa Giêsu vượt lên tất cả, Ngài đưa ra các Mối Phúc, đó là một cái gì khác biệt.

Sự cám dỗ trong Giáo hội luôn đi theo bốn con đường này. Ở Hoa Kỳ, quý vị có một đạo công giáo đặc biệt của Hoa Kỳ – đó là điều bình thường. Nhưng quý vị cũng có một số ý thức hệ nào đó trong các nhóm Công giáo.

Bà Kerry Weber: Năm 2021, chúng tôi có một cuộc điều tra hỏi người công giáo ở Mỹ, họ có tin tưởng các nhà lãnh đạo, các nhà hướng dẫn họ về các vấn đề đức tin và đạo đức không. Trong số danh sách chúng tôi liệt kê, Hội đồng Giám mục công giáo Hoa Kỳ bị cho là ít được tin cậy nhất; chỉ 20% cho là “rất đáng tin cậy”. Họ xếp giám mục địa phương của họ cao hơn; khoảng 29% cho là “rất đáng tin cậy”. Nhưng đa số người công giáo gần như mất lòng tin vào khả năng hướng dẫn đạo đức của Hội đồng Giám mục. Làm thế nào các giám mục công giáo Hoa Kỳ có thể lấy lại lòng tin nơi tín hữu của họ?

Câu hỏi hay vì nó nói về các giám mục. Nhưng tôi nghĩ thật sai lầm khi nói về mối quan hệ giữa người công giáo và hội đồng giám mục. Hội đồng giám mục không phải là mục tử; mục tử là giám mục. Vì vậy, chúng ta có nguy cơ làm giảm thẩm quyền của giám mục khi chỉ nhìn vào hội đồng giám mục. Hội đồng giám mục ở đó để tập hợp các giám mục lại với nhau, cùng làm việc, thảo luận các vấn đề, lập các kế hoạch mục vụ. Nhưng mỗi giám mục là một mục tử. Chúng ta đừng phân tán quyền lực giám mục bằng cách giảm xuống thành quyền lực của hội đồng giám mục. Vì ở cấp độ này, các khuynh hướng cạnh tranh nhau, nhiều hơn ở cánh tả, nhiều hơn ở cánh hữu, nhiều hơn bên này, nhiều hơn bên kia và dù sao hội đồng giám mục không có trách nhiệm bằng xương bằng thịt như trách nhiệm của giám mục với giáo dân mình, mục tử với giáo dân mình. Về vấn đề này, tôi nhớ một tác giả của thế kỷ thứ 5, theo tôi, đã viết về hình ảnh giám mục rất tốt. Đó là Thánh Augutinô trong “Các mục tử, De Pastoribus” của ngài.

Chúa Giêsu không lập các hội đồng giám mục. Chúa Giêsu lập các giám mục, và mỗi giám mục là mục tử của giáo dân mình.

Vì vậy, câu hỏi đặt ra là: đâu là quan hệ của giám mục với giáo dân của mình? Cho phép tôi đề cập đến một giám mục, tôi không biết giám mục này bảo thủ hay tiến bộ, thuộc cánh tả hay cánh hữu, nhưng ngài là một mục tử tốt: giám mục Mark Seitz, của El Paso ở biên giới Mexico. Ngài là người nắm rõ các mâu thuẫn ở đây và mang chúng về phía trước trong tư cách là mục tử. Tôi không nói các giám mục khác không tốt, nhưng đây là một giám mục tốt tôi biết. Quý vị có các giám mục tốt ở cánh hữu, các giám mục tốt ở cánh tả, nhưng là các giám mục nhiều hơn là các nhà ý thức hệ; các mục tử hơn là những người làm video. Đó là chìa khóa.

Câu trả lời cho câu hỏi của bà là: Hội đồng giám mục là một tổ chức nhằm hỗ trợ và đoàn kết, là biểu tượng của sự hiệp nhất. Nhưng ơn của Chúa Giêsu Kitô ở trong quan hệ giữa giám mục và giáo dân, giáo phận của ngài.

Bà Gloria Purvis: Vấn đề phá thai bị chính trị hóa nặng nề ở Hoa Kỳ. Chúng tôi biết điều đó là sai. Và Tòa án Tối cao gần đây đã phán quyết theo hiến pháp, không có quyền phá thai. Tuy nhiên, điều này dường như vẫn còn gây tai hại cho Giáo hội theo nghĩa nó làm ngăn cách chúng ta. Các giám mục có nên thuận cho ưu tiên phá thai như với các vấn đề công bằng xã hội khác không?

Về vấn đề phá thai, tôi có thể nói những điều này như tôi đã nói trước đây. Trong bất cứ quyển sách nào về phôi học, người ta đã chứng minh một tháng sau khi thụ thai, các cơ quan và DNA đã được xác định trong bào thai nhỏ, trước khi người mẹ nhận thức được. Vì thế, có một con người sống. Tôi không nói một người, vì điều này đang được tranh luận, mà là một con người sống. Và tôi đặt ra hai câu hỏi: Có đúng là loại bỏ một con người để giải quyết một vấn đề không? Câu hỏi thứ hai: Việc thuê một “một người giết thuê” để giải quyết vấn đề có đúng không? Vấn đề nảy sinh khi thực tế giết người này được chuyển thành một câu hỏi chính trị, hoặc khi người mục tử dùng theo các phạm trù chính trị.


Linh mục Sam Sawyer, tổng biên tập sắp tới của trang America lắng nghe Đức Phanxicô. (America Media / Antonello Nusca)

Một khi vấn đề mất đi chiều kích mục vụ thì vấn đề đó trở thành chính trị hơn là mục vụ. Tôi muốn nói, đừng ai phủ nhận sự thật này, đó là sự thật phổ biến. Nó không thuộc về bên này hay bên kia. Nó là phổ quát. Khi tôi thấy vấn đề nào như vấn đề này, tôi thấy đây là tội ác, nó trở thành chính trị một cách mạnh mẽ, dữ dội, thì sự chăm sóc mục vụ đã thất bại trong việc tiếp cận. Dù trong vấn đề phá thai hay trong các vấn đề khác, chúng ta không thể đánh mất chiều kích mục vụ: giám mục là chủ chăn, giáo phận là dân thánh của Thiên Chúa cùng với chủ chăn của họ. Chúng ta không thể giải quyết vấn đề phá thai như thử đó chỉ là vấn đề dân sự.

Dù trong vấn đề phá thai hay trong các vấn đề khác, chúng ta không thể đánh mất chiều kích mục vụ.

Nhà báo Gerard O’Connell: Câu hỏi đặt ra là liệu hội đồng giám mục có đưa đấu tranh chống phá thai lên hàng đầu hay không, khi tất cả những vấn đề còn lại chỉ là thứ yếu.

Câu trả lời của tôi, đây là vấn đề mà hội đồng giám mục phải giải quyết trong nội bộ. Điều tôi quan tâm là quan hệ của giám mục với giáo dân, đó là bí tích. Các vấn đề khác là vấn đề tổ chức, và các hội đồng giám mục đôi khi hiểu sai (mập mờ). Chỉ cần nhìn vào Thế chiến thứ hai để thấy một số quyết định của các hội đồng giám mục đưa ra, họ có những sai lầm từ quan điểm chính trị hoặc xã hội. Đôi khi đa số thắng, nhưng có thể đa số đã không có lý.

Nói cách khác, chúng ta nên rõ ràng ở điểm này: Thông thường, một hội đồng giám mục có quyền đưa ra ý kiến của mình về đức tin và truyền thống, nhưng trên tất cả vẫn là cách

quản lý giáo phận, v.v. Phần bí tích của thừa tác mục vụ nằm trong mối quan hệ giữa chủ chăn và dân Chúa, giữa giám mục và dân của ngài. Và điều này không thể được giao cho hội đồng giám mục. Hội đồng giúp tổ chức các cuộc họp, và những cuộc họp này rất quan trọng; nhưng với một giám mục, mục tử là quan trọng nhất. Điều thiết yếu nhất tôi muốn nói, vẫn là bí tích. Chắc chắn mỗi giám mục phải tìm kiếm tình huynh đệ với các giám mục khác nhưng chủ yếu vẫn là tương quan của giám mục với giáo dân.

Linh mục Sam Sawyer: Cuộc khủng hoảng lạm dụng tình dục đã làm tổn thương rất nhiều đến uy tín và nỗ lực truyền giáo của Giáo hội. Những tiết lộ gần đây về hành vi lạm dụng của các giám mục, những người đã lặng lẽ về hưu đã làm gia tăng lo ngại về tính minh bạch của Giáo hội trong việc xử lý các trường hợp lạm dụng, đặc biệt khi liên quan đến các giám mục. Vatican có thể làm gì thêm để cải thiện khía cạnh minh bạch này?

Trở về lại lịch sử một chút. Cho đến khi xảy ra cuộc khủng hoảng ở Boston, khi tất cả được đưa ra ánh sáng, Giáo hội thường thuyên chuyển kẻ bạo hành khỏi giáo xứ, họ bao che, như thường xảy ra trong các gia đình ngày nay. Vấn đề xâm hại tình dục đang vô cùng nghiêm trọng trong xã hội. Cách đây ba năm rưỡi, khi tôi tổ chức cuộc họp với các chủ tịch hội đồng giám mục thế giới, tôi yêu cầu thống kê chính thức và tôi được biết, có 42% đến 46% các vụ lạm dụng xảy ra trong gia đình hoặc trong khu phố. Sau đó là trong giới thể thao, giáo dục và 3% là các linh mục công giáo. Chúng ta có thể nói: “Ồ, chúng ta là số ít”. Không! Nếu chỉ có một trường hợp, là đã quá quái dị. Việc lạm dụng trẻ vị thành niên là một trong những điều quái dị nhất. Việc lạm dụng vẫn còn trong một số gia đình và cơ sở ngày nay và chung chung là che đậy. Giáo hội đã quyết định không che đậy nữa. Từ đó, đã có những tiến bộ được thực hiện trong các thủ tục tư pháp, thành lập Ủy ban Giáo hoàng Bảo vệ Trẻ vị thành niên.


Nhà báo Gerard O’Connell, bà Gloria Purvis, bà Kerry Weber, linh mục Matt Malone và linh mục Sam Sawyer

Ở đây có tấm gương của hồng y Seán O’Malley, giáo phận Boston, ngài đã có tư duy thể chế hóa việc bảo vệ trẻ vị thành niên trong Giáo hội. Khi những người trung thực thấy làm thế nào để Giáo hội đảm nhận trách nhiệm cho sự quái dị này, họ hiểu Giáo hội là một chuyện và những kẻ tấn công bị Giáo hội trừng phạt là một chuyện khác. Người đi đầu trong việc thực hiện các quyết định này là Đức Bênêđíctô XVI. Đó là một vấn đề “mới” trong biểu hiện của nó, nhưng mãi mãi nó luôn tồn tại. Trong thế giới bên ngoài, người ta thường lợi dụng trẻ em để có lạc thú. Một trong những điều làm tôi lo lắng nhất là sản phẩm khiêu dâm trẻ em. Những phim này quay trực tiếp. Quay ở nước nào? Các nhà chức trách các quốc gia sao lại để sản xuất những loại này? Đó là tội phạm. Tội phạm!

Giáo hội nhận trách nhiệm về tội lỗi của mình, và chúng ta đi tới đàng trước, là tội nhân, chúng ta tin vào lòng thương xót Chúa. Trong các chuyến đi của tôi, tôi thường tiếp các nhóm nạn nhân bị lạm dụng. Một giai thoại về điều này: Khi tôi ở Ai-len, những người bị lạm dụng xin gặp. Có sáu hoặc bảy người trong số họ. Lúc đầu, họ hơi tức giận, và họ có lý. Tôi nói với họ: “Chúng ta cùng nhau làm một cái gì. Tôi phải soạn bài giảng cho ngày mai; vì sao chúng ta không cùng nhau chuẩn bị nói về vấn đề này?” Và đó là điều tích cực vì những gì mới đầu tưởng là phản đối thì đã thành điều tích cực, và cùng nhau chúng tôi soạn bài giảng cho ngày hôm sau. Đó là điều tích cực đã xảy ra ở Ai-len, một trong những tình huống gay cấn nhất mà tôi phải đối diện. Vậy thì Giáo hội phải làm gì? Hãy tiếp tục tiến về phía trước với sự xấu hổ và nghiêm túc. Tôi có trả lời đúng câu hỏi của cha không nhỉ?

Linh mục Sam Sawyer: Một điều tôi muốn trở lại: Giáo hội Mỹ đã đạt được tiến bộ lớn trong việc giải quyết vấn đề lạm dụng của các linh mục. Tuy nhiên, có vẻ như có ít minh bạch hơn khi một giám mục bị buộc tội, và điều đó thật đáng lo ngại.

Đúng, tôi nghĩ phải có cùng một minh bạch. Nếu ít minh bạch hơn, đó là một sai lầm.

Nhà báo Gerard O’Connell: Về chiến tranh Ukraine, nhiều người ở Mỹ bối rối khi cha không chỉ trích trực tiếp nước Nga khi họ gây hấn Ukraine, thay vào đó cha nói một cách tổng quát về sự cần thiết phải chấm dứt chiến tranh, chấm dứt  đánh thuê hơn là chỉ trích các cuộc tấn công của Nga, và giúp vũ khí. Xin cha giải thích quan điểm của cha về cuộc chiến này cho người Ukraine, người Mỹ hoặc những người ủng hộ Ukraine?

Khi tôi nói về Ukraine, tôi nói về một dân tộc đã tử vì đạo. Nếu có một dân tộc tử đạo, thì phải có người làm họ tử đạo. Khi tôi nói về Ukraine, tôi nói đến sự tàn ác vì tôi có nhiều thông tin về sự tàn ác của quân đội đã đến đất nước Ukraine. Nói chung, những kẻ tàn ác nhất có lẽ là những người đến từ Nga nhưng không theo truyền thống Nga, như người Chechnya, người Buryati, v.v. Chắc chắn, kẻ xâm lược là nhà nước Nga. Rất rõ ràng. Đôi khi tôi cố gắng không nêu rõ để không xúc phạm và lên án nói chung, dù tôi biết rõ người mà tôi đang lên án. Không nhất thiết tôi phải đặt tên cho họ.

Vào ngày thứ hai của cuộc chiến, tôi đến đại sứ quán Nga, một hành động khác thường vì giáo hoàng không bao giờ đến  sứ quán nào. Và tại đó, tôi đã nói với đại sứ để ông nói lại với tổng thống Vladimir Putin, tôi sẵn sàng đi với điều kiện ông cho tôi một cửa sổ nhỏ để đàm phán. Ông Sergey Lavrov, bộ trưởng ngoại giao ở cấp cao đã trả lời một thư rất hay và tôi hiểu lúc này chưa cần thiết.


Nhóm nhân viên trang America chụp với Đức Phanxicô (America Media / Antonello Nusca).

Tôi nói chuyện qua điện thoại với tổng thống Zelensky ba lần.  Và tôi làm việc để trao trả tù nhân, cả tù dân sự và quân sự, tôi gởi danh sách này cho chính phủ Nga, và nhận được phản hồi tích cực của Nga.

Tôi cũng nghĩ đến việc đi, nhưng tôi đã quyết định: Nếu tôi đi thì tôi sẽ đi Matxcova và Kyiv, đến cả hai, không chỉ đến một nơi. Và tôi không bao giờ cho ấn tượng tôi đang che đậy sự tấn công. Trong căn phòng này tôi đã tiếp ba hoặc bốn lần một phái đoàn của chính phủ Ukraine. Chúng tôi cùng nhau làm việc.

Tại sao tôi không nêu tên Putin? Vì không cần thiết; ai cũng biết ông. Tuy nhiên đôi khi mọi người bám vào một chi tiết. Mọi người đều biết lập trường của tôi, có Putin hay không có Putin, không cần phải nêu tên ông.

Tại sao tôi không nêu tên Putin? Vì không cần thiết; ai cũng biết ông.

Một vài hồng y đã đến Ukraine: hồng y Czerny đi hai lần; tổng giám mục Gallagher, bộ trưởng quan hệ với các quốc gia, đã ở Ukraine bốn ngày, và tôi nhận được báo cáo những gì ngài chứng kiến; hồng y Krajewski đi bốn lần. Ngài đi với chiếc xe tải chất đầy đồ đạc và đã ở Ukraine trong Tuần Thánh. Sự hiện diện của Tòa Thánh qua các hồng y là rất mạnh, và tôi thường xuyên tiếp xúc với những người có trách nhiệm.

Trong những ngày này có lễ tưởng niệm Holodomor, tội ác diệt chủng mà Stalin đã gây ra với người Ukraine (năm 1932-33). Tôi nghĩ việc nhắc đến tội ác này trong bối cảnh của cuộc xung đột hiện tại là thích hợp.

Quan điểm của Tòa thánh là tìm kiếm hòa bình và tìm kiếm sự hiểu biết. Chính sách ngoại giao của Tòa thánh đang đi theo hướng này và tất nhiên, luôn sẵn sàng làm trung gian.

Bà Gloria Purvis: Trong lịch sử Giáo hội Mỹ, phần lớn người công giáo Da đen bị bỏ quên. Đó là kinh nghiệm của chúng tôi với Giáo hội, nhưng chúng tôi ở lại vì chúng tôi tin tưởng. Bây giờ, trong một thăm dò gần đây cho biết, một số lượng lớn người công giáo Da đen đang bỏ Giáo hội. Phân biệt chủng tộc là quan trọng với chúng tôi, nhưng những người công giáo khác không xem đó là ưu tiên. Sau vụ ông George Floyd bị giết, nhiều người rời Giáo hội vì họ thấy có sự bỏ quên của Giáo hội trong chủ đề phân biệt chủng tộc. Cha sẽ nói gì với người công giáo Da đen ở Hoa Kỳ, những người đã trải nghiệm nạn phân biệt chủng tộc và trong các lời kêu gọi công bằng chủng tộc, tiếng nói của họ trong Giáo hội không được lắng nghe?  Làm thế nào cha có thể nâng đỡ họ?

Tôi muốn nói với họ, tôi gần với nỗi đau họ đang trải qua, đó là nỗi đau về chủng tộc. Và trong hoàn cảnh này, một cách nào đó, các giám mục địa phương nên gần gũi với họ. Giáo hội có các giám mục người Mỹ gốc Phi.

Bà Gloria Purvis: Có, nhưng đa số chúng tôi đi nhà thờ không có các linh mục người Mỹ gốc Phi, và hầu hết những người khác không phải là linh mục người Mỹ gốc Phi, dường như họ không nhạy cảm với đau khổ của chúng tôi. Nhiều khi họ phớt lờ nỗi đau của chúng tôi. Vậy làm thế nào để có thể khuyến khích người công giáo Da đen ở lại?

Tôi tin điều quan trọng ở đây là phát triển mục vụ, các giám mục hay giáo dân có thể làm, một phát triển mục vụ trưởng thành. Có, chúng tôi thấy có phân biệt đối xử, và tôi hiểu họ không muốn đi. Đôi khi ở các quốc gia khác, điều tương tự cũng xảy ra trong hoàn cảnh này. Nhưng có một lịch sử rất cổ xưa, lâu đời hơn nhiều so với lịch sử ở Mỹ và nó vẫn chưa được giải quyết. Các giám mục và các thừa tác viên mục vụ phải giúp giải quyết vấn đề này theo tinh thần Phúc âm.

Tôi muốn nói với người công giáo người Mỹ gốc Phi, rằng giáo hoàng nhận thức được nỗi đau của họ, ngài yêu thương họ rất nhiều, và họ phải cự lại và không bỏ đi. Phân biệt chủng tộc là một tội không thể dung thứ với Chúa. Giáo hội, các mục tử và giáo dân phải tiếp tục chiến đấu để xóa bỏ, để có một thế giới công bằng hơn.

Nhân cơ hội này, tôi cũng xin nói, tôi rất yêu mến các dân tộc bản địa Hoa Kỳ. Và tôi không quên người latinô, họ ở đó rất nhiều.

Bà Kerry Weber: Như cha đã biết, phụ nữ đã đóng góp và có thể đóng góp rất nhiều cho Giáo hội. Cha đã bổ nhiệm nhiều phụ nữ làm việc ở Vatican, điều đó thật tuyệt. Tuy nhiên, nhiều phụ nữ cảm thấy đau vì họ không thể được thụ phong linh mục. Cha sẽ nói gì với một phụ nữ đã phục vụ trong đời sống Giáo hội, cảm thấy họ có ơn gọi làm linh mục?

Đó một vấn đề thần học. Tôi nghĩ chúng ta đã xén bớt sự tồn tại của Giáo hội nếu chúng ta chỉ xem xét cách thức của chiều kích thừa tác (Ministidad) trong đời sống Giáo hội. Con đường không chỉ là chức vụ được phong chức. Giáo hội là phụ nữ. Giáo hội là người người phối ngẫu. Chúng ta đã không phát triển một thần học về phụ nữ phản ánh điều này. Có thể nói, chiều kích thừa tác là của Giáo hội theo học thuyết Phêrô. Tôi dùng thuật ngữ thần học. Nguyên tắc học thuyết Phêrô là nguyên tắc thừa tác. Nhưng có một nguyên tắc khác còn quan trọng hơn, mà chúng ta không nói đến, đó là nguyên tắc Đức Mẹ, nguyên tắc của nữ tính (femineidad) trong Giáo hội, của người phụ nữ, nơi Giáo hội thấy tấm gương của chính mình, vì Giáo hội là phụ nữ, là người người phối ngẫu. Một Giáo hội chỉ có học thuyết Phêrô sẽ là một Giáo hội mà người ta nghĩ nó được thu gọn vào chiều kích thừa tác chứ không có gì khác. Nhưng Giáo hội không chỉ là thừa tác. Đó là toàn thể dân Chúa. Giáo hội là phụ nữ. Giáo hội là người người phối ngẫu. Vì vậy, phẩm giá của phụ nữ được phản chiếu theo cách này.

Có một cách thứ ba: cách quản trị. Con đường thừa tác, con đường giáo sĩ, con đường Đức Mẹ, và con đường quản trị không phải là một điều thần học, nó là một điều hành chính thông thường. Và, ở khía cạnh này, tôi tin chúng ta phải dành nhiều chỗ hơn cho phụ nữ. Ở Vatican, những nơi có phụ nữ hoạt động tốt hơn. Chẳng hạn ở Hội đồng Kinh tế, chúng tôi có sáu hồng y và sáu giáo dân. Hai năm trước, tôi bổ nhiệm năm phụ nữ trong số sáu giáo dân, và đó là một cuộc cách mạng. Phó thống đốc Vatican là phụ nữ. Khi người phụ nữ tham gia chính trị hoặc quản lý mọi thứ, nhìn chung họ làm tốt hơn. Nhiều nhà kinh tế là phụ nữ, và họ đang đổi mới nền kinh tế theo hướng xây dựng.

Vì vậy, có ba nguyên tắc, hai thần học và một hành chính. Nguyên tắc học thuyết Phêrô là chiều kích thừa tác, nhưng Giáo hội không thể chỉ hoạt động với chiều kích này. Nguyên tắc Đức Mẹ là nguyên tắc Giáo hội là phụ nữ, là người phối ngẫu. Và nguyên tắc hành chính, không phải là thần học, mà là nguyên tắc quản lý, về những gì chúng ta làm.

Và vì sao phụ nữ không ở trong thánh chức? Vì học thuyết Phêrô không có chỗ cho điều này. Đúng, phải ở trong nguyên tắc Đức Mẹ, là nguyên tắc quan trọng hơn, phụ nữ hơn, giống Giáo hội hơn, đó là người mẹ và người phối ngẫu. Tôi tin rằng chúng ta đã quá thường xuyên thất bại trong việc dạy giáo lý khi giải thích những điều này. Chúng ta đã dựa quá nhiều vào nguyên tắc hành chính để giải thích, điều này về lâu về dài không có tác dụng.

Đây là lời giải thích ngắn gọn, nhưng tôi muốn làm nổi bật hai nguyên tắc thần học; nguyên tắc học thuyết Phêrô và nguyên tắc Đức Mẹ tạo nên Giáo hội. Vì vậy, khi người phụ nữ không bước vào đời sống thừa tác thì không phải là một sự thiếu thốn. Không. Vị trí của họ quan trọng hơn nhiều và chúng tôi vẫn chưa phát triển việc dạy giáo lý về phụ nữ theo cách của nguyên tắc Đức Mẹ.

Và về điều này, về đặc sủng của phụ nữ, tôi xin phép chia sẻ một kinh nghiệm cá nhân. Để chịu chức, người ta đòi hỏi thông tin của những người biết ứng viên. Thông tin tốt nhất, chính xác nhất mà tôi nhận được là từ cha phụ tá (giám mục) của tôi, hoặc giáo dân không phải là linh mục, hoặc từ phụ nữ. Mũi của họ rất thính, họ có một giác quan về giáo sĩ để xem người này có phù hợp với chức tư tế hay không.

Một giai thoại khác: một lần tôi hỏi thông tin về một ứng viên rất sáng giá cho chức linh mục. Tôi hỏi các giáo sư, các người đồng hành và cả những người trong giáo xứ biết anh. Và một phụ nữ viết bản báo cáo rất tiêu cực, nói rằng: “Đây là một nguy hiểm, người thanh niên trẻ này sẽ không làm việc.” Tôi điện thoại hỏi bà, ‘vì sao bà nói như vậy?’ Bà trả lời: ‘Tôi không biết tại sao, nhưng nếu là con tôi, tôi sẽ không để cho người ta phong chức cho nó; anh ấy đang thiếu một cái gì đó’. Vì thế tôi nghe lời khuyên của bà, tôi nói với ứng viên, ‘năm nay anh chưa chịu chức, chúng ta chờ.’ Ba tháng sau chủng sinh này gặp khủng hoảng và bỏ đi. Người phụ nữ là người mẹ, họ nhìn thấy bí ẩn của Giáo hội rõ hơn đàn ông chúng tôi. Vì thế lời khuyên của phụ nữ là rất quan trọng, và quyết định của một phụ nữ thì  tốt hơn.

Linh mục Matt Malone: Ở Hoa Kỳ, có những người cho rằng các chỉ trích của cha về chủ nghĩa tư bản thị trường là chỉ trích Hoa Kỳ. Thậm chí có người còn cho cha là người theo xã hội chủ nghĩa, theo cộng sản, theo chủ nghĩa Marx. Dĩ nhiên cha luôn nói cha theo Phúc âm. Nhưng cha trả lời thế nào với những người nói những gì Giáo hội và cha nói về kinh tế là không quan trọng.

Tôi luôn tự hỏi việc dán nhãn này đến từ đâu? Ví dụ, khi trên máy bay từ Ai-len về, một bức thư của một giám chức người Mỹ tung ra nói đủ chuyện về tôi. Tôi cố gắng làm theo Phúc âm. Tôi được soi sáng bởi các Mối Phúc, nhưng trên hết là theo tiêu chuẩn mà chúng ta sẽ bị phán xét như trong Phúc âm Thánh Mattêô 25. “Ta khát, các con đã cho Ta uống, Ta ngồi tù, các con đến hỏi han, Ta đau yếu, các con đến thăm.” Vậy Chúa Giêsu có phải là người cộng sản không? Vấn đề đằng sau những chuyện cha đề cập là sứ điệp Phúc âm đã giảm sút về mặt chính trị xã hội. Nếu tôi chỉ nhìn Phúc âm theo cách xã hội học, thì đúng, tôi là người cộng sản, và Chúa Giêsu cũng vậy. Đằng sau các Mối phúc và đoạn Phúc âm này chính là sứ điệp của Chúa Giêsu. Và đó là điều để chúng ta là người tín hữu kitô. Cộng sản đã đánh cắp một số giá trị kitô giáo của chúng ta. (Cười.) Còn một số người khác, họ lại làm thành thảm họa.

Cộng sản đã đánh cắp một số giá trị kitô giáo của chúng ta. Còn một số người khác, họ lại làm thành thảm họa.

Nhà báo Gerard O’Connell: Nói về chủ nghĩa cộng sản, cha đã bị chỉ trích về Trung Quốc. Cha đã ký một thỏa thuận với Trung Quốc về việc bổ nhiệm các giám mục. Một số người, và chính cha cũng nói kết quả không tốt, nhưng đó là một kết quả. Một số người trong Giáo hội và trong giới chính trị nói cha đã trả một giá quá đắt để duy trì sự im lặng về nhân quyền ở Trung Quốc.

Đó không phải là vấn đề của việc nói hay im lặng. Đó không phải là thực tế. Thực tế là đối thoại hay không đối thoại. Và cho đến thời điểm này đối thoại là có thể.

Theo tôi, tấm gương cao cả nhất tôi tìm thấy trong thời kỳ hiện nay của Giáo hội là tấm gương của hồng y Casaroli. Có một quyển sách có tên là Tử đạo của Kiên nhẫn nói về công việc của ngài ở Đông Âu. Các giáo hoàng – Đức Phaolô VI và Đức Gioan-Phaolô II – đã cử hồng y đến các nước Trung Âu để cố gắng thiết lập lại quan hệ trong thời thờ chiến tranh lạnh cộng sản. Và hồng y đã đối thoại với các chính phủ một cách chậm rãi, ngài đã làm những gì có thể và dần dần ngài đã thiết lập lại hệ thống phẩm trật công giáo ở các quốc gia đó. Chẳng hạn như không phải lúc nào cũng có thể bổ nhiệm người giỏi nhất làm tổng giám mục ở thủ đô, thay vào đó có thể là người theo chính phủ.

Đối thoại là con đường ngoại giao tốt nhất. Với Trung Quốc, tôi chọn con đường đối thoại. Nó chậm, nó có thất bại và cũng có thành công của nó, nhưng tôi không thể tìm ra con đường khác. Và tôi muốn nhấn mạnh điều này: dân tộc Trung quốc là một dân tộc tộc có một minh triết cao, tôi kính trọng và ngưỡng mộ. Tôi xin ngã mũ chào. Và vì thế, tôi cố gắng đối thoại, vì không phải chúng ta đi chinh phục mọi người. Không! Có những người theo đạo ở đó. Họ phải được chăm sóc, để họ có thể là người công dân tốt, người tín hữu tốt.

Có một câu chuyện hay khác về cách Giáo hội thực hiện công việc tông đồ này. Lần cuối khi còn là tổng giám mục hồng y  Casaroli nhìn thấy Đức Gioan XXIII. Ngài đưa ra bản báo cáo về các thương thuyết ở các quốc gia này đã được làm như thế nào. Vào các ngày cuôi tuần, hồng y thường đến nhà tù trẻ vị thành niên Casal Del Marmo để thăm các em trẻ. Trong buổi tiếp kiến với Đức Gioan XXIII, họ nói về vấn đề của nước này, nước kia. Chẳng hạn phải đưa ra những quyết định khó khăn để đưa hồng y József Mindszenty đến Rôma; khi đó ngài ở sứ quán Mỹ tại Budapest. Đó là một vấn đề, một quyết định khó khăn, nhưng hồng y Casaroli đã chuẩn bị việc di chuyển này. Và khi chuẩn bị chào từ giã, Đức Gioan XXIII hỏi hồng y, ‘Xin hỏi anh một chuyện, cuối tuần anh còn đi thăm các tù nhân trẻ không?” hồng y trả lời ‘có’, giáo hoàng nói ‘anh cho tôi gởi lời chào và xin anh đừng bỏ rơi họ!’ Trong trái tim của hai vĩ nhân này, việc đi thăm các tù nhân trẻ cũng quan trọng như việc thiết lập quan hệ với Praha, Budapest hay với Vienna. Đây là những điều tuyệt vời. Điều này cho chúng ta thấy một bức tranh toàn cảnh của họ.

Nhà báo Gerard O’Connell: Xin hỏi cha một câu hỏi cuối cùng. Bây giờ cha đã là giáo hoàng được 10 năm.

Đúng! (cười)

Nhà báo Gerard O’Connell: Nếu cha nhìn lại, xin cha cho biết ba chuyện cha sẽ làm khác đi hoặc làm cha hối tiếc?

Tất cả! Tất cả! (All! All! ngài nói bằng tiếng Anh, và mọi người cười nghiêng ngả). Tất cả đều khác nhau! Nhưng tôi làm những gì Chúa Thánh Thần bảo tôi phải làm. Và khi tôi không làm điều gì đó, tôi đã phạm sai lầm.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Back To Top