Cầu nguyện liên ANRÊ tiếng Hy lạp có nghĩa là…
ĐỊNH HƯỚNG CUỘC SỐNG
12.11 Thánh Josaphat, Gmtđ
St 2:1-8,11-14; Tv 37:3-4,18,23,27,29; Lc 17:7-10
ĐỊNH HƯỚNG CUỘC SỐNG
Thánh Josaphát sinh khoảng năm 1580, tại Ucraina, trong một gia đình theo Chính thống giáo. Cha mẹ làm nghề buôn bán. Vì bận công việc, hai ông bà ít có thời giờ chăm lo giáo dục và huấn luyện lòng đạo đức cho con. Nhưng bù lại, Josaphát đã được hưởng một sự giáo dục đầy đủ về cả trí lẫn tâm, nhờ tiếp xúc gặp gỡ thường xuyên với một linh mục, có lòng đạo đức, nhờ đó Josaphát đã sớm gắn bó với Giáo Hội Chính thống Ucraina, theo nghi lễ Xilavônia hiệp nhất với Rôma. Ngay từ thơ ấu, Josaphát đã hấp thụ nơi linh mục này tinh thần cầu nguyện và hăng hái làm việc tông đồ. Nhiều lần sau khi đi học về, cậu Josaphát thường mang ảnh Chuộc tội ra đứng ở nơi công cộng và rao giảng như một “ông cụ non” về sự thương khó của Chúa Giêsu. Ban đầu nhiều người cho cậu bé là kỳ dị, nhưng dần dà họ như bị thôi miên bởi vẻ mặt rạng rỡ và giọng nói đầy cảm động của Josaphát đến nỗi nhiều người đã bỏ cả công việc để đến nghe thuyết giảng. Đúng là một tông đồ miệng còn hơi sữa!
Năm lên mười bảy tuổi, Josaphát nghe như có tiếng gọi dấn thân phục vụ Chúa đắc lực hơn, nên đã mạnh dạn ngỏ ý xin cha mẹ cho vào tu ở một đan viện. Nhưng ông bà thân sinh vốn ham mê công việc buôn bán, lại muốn con lập gia đình để có người nối dõi tông đường, nên đã cương quyết từ chối ý định của con nhưng sau vì thấy Josaphát một mực từ chối đời sống hôn nhân, nên hai ông bà thân sinh bằng lòng cho con tự do đi theo tiếng Chúa gọi.
Josaphát xin vào đan viện thánh Basiliô ở Vilna, với ý hướng dâng hiến cuộc đời cùng với những hy sinh, phạt xác theo nếp sống đan tu đề cầu nguyện cho Giáo Hội. Những tưởng được an tâm để theo đuổi nguyện vọng, ai ngờ thầy lại gặp cảnh trớ trêu: Đan viện nơi thầy Josaphát ở đã mất sự hiệp nhất từ trong nội bộ. Bề trên của đan viện có khuynh hướng ngả theo phe ly khai, kéo theo một số thầy. Thế là nhà dòng đâm ra chia rẽ, kẻ theo Bề trên, người theo thầy Josaphát, khiến thầy mấy lần bị những người thuộc phe đối nghịch làm khó dễ . Phân vân trước hai ngã đường: Phải trung thành với Giáo Hội Chúa Kitô hay vâng phục Bề trên? Sau những ngày cầu nguyện và suy nghĩ, thầy Josaphát đã quyết định không đứng về phe ly khai. Thầy mạnh dạn lên tiếng: “Trong trường hợp Bề trên công khai làm trái luật Chúa và Giáo Hội, không ai được phép vâng theo!” Ít lâu sau câu chuyện lục đục này của nhà dòng tới tai Đức Giám mục giáo phận, ngài liền cách chức vị Bề trên ấy, sai đi một nơi hẻo lánh để hồi tâm và đặt thầy Josaphát lên làm Bề trên thay thế.
Sau hai năm trong cương vị Bề trên đan viện, thầy Josaphát được thụ phong linh mục. Ngày đêm cha hăng hái lao mình vào việc củng cố sự hiệp nhất trong nội bộ đan viện và trong Giáo Hội Ucraina đã hiệp nhất với Rôma, kêu gọi những anh em ly khai trở về với Giáo Hội mẹ. Ngài cũng hết tâm chăm lo cho những người nghèo khổ có nơi ăn chốn ở . Người thời bấy giờ quen gọi ngài là “Cha của những người khốn khổ”. Năm 1617, ngài được phong làm Tổng Giám mục
Vì nhiệt tâm tông đồ, năm 1623, Đức Giám mục Josaphát lên đường đi Vitebsk để viếng thăm, ủy lạo và cổ vũ tinh thần hiệp nhất của các tín hữu nơi đây. Những thành công hoạt động tông đồ của vị Giám mục vừa mạnh mẽ vừa nhân hậu này đã khiến những người đối nghịch gọi ngài là “tên bắt cóc các linh hồn”. Họ để lòng thù ghét và thừa dịp ngài đến viếng thăm Vitebsk, họ đã hạ sát ngài ở đây.
Đúng như ngài đã linh cảm trước khi lên đường và khi ấy ngài đã cầu nguyện: “Lạy Chúa, con biết những kẻ thù nghịch của Chúa sẽ giết con; nhưng con sẵn sàng hiến dâng mạng sống con cho Chúa. Con chỉ xin Chúa một điều là cho họ được ơn trở về với Hội Thánh Chúa”.
Ðức Giáo Hoàng Piô IX đã tôn phong Ngài lên bậc hiển thánh vào năm 1867 với tước hiệu” Ðấng bảo vệ sự thống nhất Giáo Hội”. Ngài là vị thánh Ðông phương đầu tiên được phong tước hiệu quí hóa này.
Nhân vật nổi tiếng trong Giáo Hội hiện nay được thế giới nhắc nhớ và thương mến nhất, hẳn phải là Mẹ Terêsa Calcutta, một người đã được nhiều giải thưởng nhất: giải Magsaysay do chính phủ Phi Luật Tân dạo thập niên 60; đầu năm 1971, Mẹ lại được Ðức Phaolô VI trao giải Gioan XXIII vì hòa bình; giải thưởng Kenedy do chính phủ Hoa Kỳ tặng, tất cả số tiền nhận được, Mẹ đã dùng để xây dựng trung tâm Kenedy tại một khu ổ chuột ở ngoại ô Calcutta; tháng 12/1972 chính phủ Ấn nhìn nhận sự đóng góp của Mẹ và trao tặng Mẹ giải Nêru; nhưng đáng kể hơn nữa là giải Nobel Hoà bình năm 1979, đây là giải thưởng đã làm cho tên tuổi Mẹ Têrêsa được cả thế giới biết đến, cũng như những lần khác, khi một viên chức chính phủ Ấn gọi điện thoại để chúc mừng, Mẹ đã trả lời: “Tất cả vì vinh quang Chúa”.
“Tất cả vì vinh quang Chúa”, đó là động lực đã thúc đẩy Mẹ Têrêsa dấn thân phục vụ người nghèo trên khắp thế giới. Với bao nhiêu danh vọng và tiền bạc do các giải thưởng mang lại, Mẹ vẫn tiếp tục là một nữ tu khiêm tốn, nghèo khó, làm việc âm thầm giữa những người nghèo khổ nhất. Thông thường, các giải thưởng cho một người nào đó như một sự nhìn nhận vào cuối một cuộc đời phục vụ làm việc hay một công trình nghiên cứu; nhưng đối với Mẹ Têrêsa, mỗi giải thưởng là một bàn đạp mới, một khởi đầu cho một công trình phục vụ to lớn hơn và làm cho nhiều người biết đến và ngợi khen Thiên Chúa nhiều hơn.
Qua cuộc đời của Mẹ Têrêsa, chắc chắn thế giới sẽ hiểu hơn thế nào là tinh thần phục vụ đích thực trong Giáo Hội. Một Giáo Hội càng phục vụ thì bộ mặt của Chúa Kitô phục vụ càng sáng tỏ hơn; trái lại, khuôn mặt Chúa Kitô sẽ lu mờ đi, nếu Giáo Hội chưa thể hiện được tinh thần phục vụ đích thực của Ngài.
Tin Mừng mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay mời gọi chúng ta nhìn nhận những thiếu sót của chúng ta: có lẽ dung mạo của một Chúa Kitô phục vụ và phục vụ cho đến chết chưa được phản ảnh trên gương mặt của các Kitô hữu; tinh thần phục vụ đích thực của Kitô giáo vẫn chưa được sáng tỏ và thể hiện qua cách sống của các Kitô hữu. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Khi làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm những việc bổn phận mà thôi”. Ðầy tớ là người làm tất cả những mọi sự vì chủ, đầy tớ là người hoàn toàn sống cho chủ. Dĩ nhiên, ở đây, Chúa Giêsu không có ý đề cao quan hệ chủ tớ trong xã hội. Ngài đã xem quan hệ trong xã hội con người và Thiên Chúa như một quan hệ chủ tớ; Ngài đã chẳng mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa như một người Cha và mời gọi chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha đó sao?
Như vậy, ở đây, Chúa Giêsu chỉ muốn dùng hình ảnh người đầy tớ vốn có trước mắt người Do thái, để nói lên tương quan đích thực giữa con người và Thiên Chúa, đó là con người chỉ sống thực sự khi nó sống cho Thiên Chúa mà thôi. Cái nghịch lý lớn nhất mà Kitô giáo đề ra là càng tìm kiếm bản thân, càng sống cho riêng mình, con người càng đánh mất chính mình; trái lại, càng sống cho Thiên Chúa, càng tìm kiếm vinh danh Thiên Chúa, nghĩa là càng phục vụ vô vị lợi, con người càng lớn lên và càng tìm lại được bản thân; giá trị đích thực của con người như Chúa Giêsu đã dạy và đã sống chính là phục vụ một cách vô vị lợi. Công Ðồng Vaticanô II trong Hiến Chế “Vui Mừng và Hy Vọng” đã để lại một châm ngôn đáng được chúng ta suy niệm và đem ra thực hành: “Con người chỉ tìm gặp lại bản thân bằng sự hiến thân vô vị lợi mà thôi”.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại định hướng cơ bản trong cuộc sống chúng ta: đâu là mục đích và ý nghĩa cuộc sống chúng ta? đâu là giá trị đích thực mà chúng ta đang tìm kiếm và xây dựng trong cuộc sống hiện tại.