skip to Main Content

Ý Nghĩa Của Kinh Lạy Cha

9.10 Thứ Tư Thứ Tư trong tuần thứ Hai Mươi-Bảy Mùa Quanh Năm

Gl 2:1-2,7-14; Tv 117:1,2; Lc 11:1-4

Ý Nghĩa Của Kinh Lạy Cha

Cầu nguyện được ví như hơi thở, là hoạt động căn bản của đời sống thiêng liêng. Cầu nguyện đối với người Kitô hữu còn là tâm tình con thảo với Cha trên trời, là thể hiện niềm tin và phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa.

Khi chúng ta cầu nguyện “xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy” có nghĩa là với lòng phó thác tin tưởng của phận làm con, chúng ta xin Chúa ban lương thực hằng ngày để mọi người được sống. Bởi vì, Thiên Chúa – Đấng ban sự sống cho chúng ta – không lẽ lại không ban những gì cần thiết cho sự sống. Qua lời cầu xin này, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến lòng tín thác con thảo, cùng cộng tác với sự quan phòng của Cha chúng ta. Ngài không muốn chúng ta lười biếng, nhưng muốn giải phóng chúng ta khỏi mọi lo âu và bận tâm. Đó là sự phó thác hiếu thảo của con cái Thiên Chúa.

Thánh Inhaxiô Loyola đã nói: “Anh em hãy cầu nguyện như thể tất cả tùy thuộc vào Thiên Chúa, và hãy làm việc như thể tất cả tùy thuộc vào anh em”. Cả khi chúng ta đã hoàn tất công việc của mình, lương thực vẫn là một hồng ân của Cha chúng ta.

Chúng ta không đi sâu vào chi tiết chú giải kinh Lạy Cha, cũng không muốn tìm hiểu tại sao lời kinh Lạy Cha được Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ lại được ghi lại một cách khác nhau nơi Phúc Âm Mátthêu chương 6 và Phúc Âm Luca chương 11 và được Giáo Hội trình bày cho chúng ta trong lời suy niệm hôm nay. Chúng ta hãy nhớ đến ý nghĩa kinh Lạy Cha như là một bản tóm kết trọn vẹn cả Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, bản tóm gọn khoa thần học, một bản giáo lý về đời sống Kitô.

Chúng ta cần khám phá kinh Lạy Cha, đây là trường dạy ta cầu nguyện và hãy cầu nguyện kinh Lạy Cha với tâm trí chìm sâu trong chiêm niệm, để mỗi ngày chúng ta được hiểu thêm về mầu nhiệm Thiên Chúa trong cuộc đối thoại Cha con, trong thái độ tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa và với con tim rộng mở để tha thứ cho anh chị em và đón nhận mọi người như anh chị em mình trong cùng một đại gia đình của Thiên Chúa. Ðối với người Do Thái thời Chúa Giêsu, việc đối thoại với Thiên Chúa và gọi Ngài là Cha trong ý nghĩa Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ Người hiểu, thì đó là một việc làm táo bạo và xúc phạm đến uy linh Thiên Chúa. Nếu không có lời Chúa Giêsu dạy để cầu nguyện như vậy, có lẽ con người phàm trần chúng ta không dám cất tiếng gọi Thiên Chúa là Cha như vậy.

Cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha theo ý Chúa Giêsu muốn qua lời kinh Lạy Cha là một việc làm hết sức mới mẻ và đồng thời cũng hết sức đòi hỏi. Thói quen chúng ta đọc kinh Lạy Cha quá thường, làm cho chúng ta mất đi ý thức về sự mới mẻ và về đòi hỏi quan trọng đối với Thiên Chúa cũng như đối với anh chị em. Ðối với Thiên Chúa, mọi đồ đệ cần phải tôn vinh Ngài và vâng phục thánh ý Ngài. Ðối với anh chị em, người đồ đệ Chúa không thể nào tránh né bổn phận tha thứ như Chúa đã tha thứ. Chúng ta hãy ý thức lại để cho sự mới mẻ này đòi hỏi kinh Lạy Cha thấm nhập sâu vào con người chúng ta và hướng dẫn mọi hoạt động lớn nhỏ hàng ngày của người Kitô chúng ta.

Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy ta cầu nguyện: Lạy Cha chúng con… Xin Cha cho chúng con… Chứ không dạy ta đọc: Lạy Cha của con… Xin Cha cho con… Nghĩa là tất cả mọi người có cùng một Cha. Mọi người đều thuộc về một gia đình Thiên Chúa. Là anh em nên phải có tình yêu thương đoàn kết, liên đới với nhau. Liên đới trong đời sống, liên đới trong cả lời cầu nguyện.

Chúa Giêsu cũng biết những thính giả của Ngài đầy ngờ vực khi nghe những lời dạy ấy nên Ngài mới thuyết phục thêm: “Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”.

Và kèm theo đó, ta thấy Chúa Giêsu cũng dạy cho chúng ta cách thức đáp trả tình yêu của Thiên Chúa, đó là hãy chu toàn thánh ý của Thiên Chúa. Lời kinh Lạy Cha Ngài để lại cho Giáo Hội chính là chương trình sống của Ngài, chính là tiếng xin vâng của Ngài đối với Chúa Cha. Từ sáng đến chiều, xuyên qua những giao tiếp và giảng dạy, Ngài luôn để lộ một cử chỉ duy nhất, đó là thuộc trọn về Chúa Cha, tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu của Chúa Cha. Để lại cho chúng ta kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu không chỉ truyền lại một công thức, mà là cả cuộc sống xin vâng của Ngài.

Cầu nguyện, trước hết là ý thức về tầm chính xác của mình trước mặt Thiên Chúa. Thế mà đối với Thiên Chúa toàn thể vũ trụ nhỏ hơn một giọt nước trong lòng đại dương. Kẻ thờ phụng dành tất cả tâm hồn mình cho Thiên Chúa. Điều gì biện minh cho thái độ ấy? Thật ra con người ý thức rất rõ mình có khả năng suy nghĩ, hành động, có cả quyền năng nữa. Lẽ nào chỉ vì Thiên Chúa quyền năng vô cùng mà chúng ta phải nhượng bộ tất cả cho Thiên Chúa ư? Thờ phụng, trước hết không phải là sự quy phục của lương tri trước Đấng có quyền năng hơn con người. Thờ phụng là thái độ lương tri tự do muốn nhìn nhận sự thật.

Vậy mà sự thật chính là Thiên Chúa hằng hữu, quyền năng vô biên, Đấng vô cùng tận. Thờ phụng là nhìn nhận sự thật ấy. Điều biện minh cho thờ phụng chỉ xuất phát từ sự thật mà thôi. Vì lẽ có nhìn nhận sự thật, con người mới có được phẩm giá; trong sự thờ phụng, tức là trong sự nhìn nhận sự thật, con người tìm ra tầm mức phẩm giá của mình.

Cầu nguyện của người Kitô hữu là tự đặt mình vào trong mối tương quan này, coi Thiên Chúa như là Cha hoặc Mẹ, thưa chuyện với Ngài, kể chúng ta là con cái. Khi con trẻ thưa chuyện với cha mẹ, việc quan trọng không phải là đúng cách hay sai cách, chúng chỉ đơn thuần tập trung vào một điều là dùng tất cả lời nói, cử chỉ để diễn tả lòng mình. Cũng vậy, trước mặt Chúa, người Cha nhân từ khi chúng ta cầu nguyện mà công thức, thủ tục đều là chuyện thứ yếu, nếu chúng ta không muốn nói là thường. Con cái tin tưởng rằng, cha mẹ luôn luôn làm những gì là tốt nhất cho mình.

Và rồi cầu nguyện không có nghĩa là đọc lại một câu kinh, mà chính đi vào tâm tình và cuộc sống của Chúa Giêsu. Một người tín hữu luôn chu toàn thánh ý Thiên Chúa và luôn sống với hai chữ xin vâng hằng sẽ không ngừng kêu lên: Ta đã cầu xin được khoẻ mạnh để làm những điều vĩ đại, thế nhưng Chúa lại ban cho ta những bệnh tật để tôi làm những việc tốt hơn. Ta đã xin giàu sang để được hạnh phúc, thế nhưng Chúa đã ban cho ta sự nghèo khó để tôi được khôn ngoan hơn. Ta đã không nhận được điều tôi kêu cầu, nhưng ta nhận được niềm hy vọng. Những lời cầu xin mà ta chưa từng thốt lên, tất cả đều được nhận lời. Bởi vì tất cả đều là hồng ân của Chúa.

Phải kiên nhẫn trong khi cầu nguyện là để tăng thêm ước muốn của ta, và cũng là để tăng thêm giá trị ơn Người sẽ ban. Nếu ta không nhận được điều mình xin, thì không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta, hoặc Người muốn dành cho chúng ta một ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu thương của một người Cha đầy tình nhân ái.

Bài học trong dụ ngôn về cầu nguyện không phải dạy ta cứ mãi mãi nài xin, không phải chúng ta cứ phải đập vào cửa Thiên Chúa cho đến khi ép buộc Ngài cực chẳng đã phải ban cho ta điều chúng ta muốn, cho đến khi ta cưỡng ép được Thiên Chúa không sẵn lòng chịu trả lời cho ta, một dụ ngôn nói nôm na là một điều gì đó đặt bên cạnh. Nó cho ta thấy sự tương đồng hay tương phản giữa hai sự việc.

Ta thấy Chúa Giêsu ngụ ý như sau: “Nếu một người chủ nhà khó tính và thiếu thiện chí mà cuối cùng có thể bị cưỡng ép bởi quyết tâm của một người bạn trì chí, để phải cho người đó mọi điều mong muốn, huống chi Thiên Chúa là Cha Từ Ái sẽ tiếp trợ mọi nhu cầu cho con cái Ngài hơn biết dường nào! Chúa Giêsu phán: “Nếu các ngươi vốn xấu mà còn biết rằng mình có bổn phận cung cấp nhu cầu cho con cái, huống chi Cha trên trời…”

Chúa Giêsu dạy chúng ta, con cái của Thiên Chúa cần phải biết kiên trì trong cầu nguyện. Coi cầu nguyện như là việc giữa cha và con, điều này cũng nhắc cho chúng ta biết cầu nguyện là một hành vi phát xuất từ một mối tương quan. Chúng ta có thể coi việc cầu nguyện tốt hơn, nhưng chúng ta cũng có thể trở thành những con người tốt hơn của cầu nguyện, khi mối tương quan giữa chúng ta và Thiên Chúa trở nên thân mật gần gũi hơn như là một mối liên hệ giữa cha và con.

Lời Chúa hôm nay mời gọi ta hãy sống trong tình con thảo với Cha trên trời. Một người con thảo hiếu luôn sống với Cha trong tình phó thác và với anh em trong tình bác ái. Chính Chúa Giêsu đã sống điều đó. Ngài đã phó thác cuộc đời trong tay Cha đến nỗi chỉ mong ước một điều là tim kiếm ý Cha và làm vinh danh Cha.

 

 

 

Back To Top