Cầu nguyện liên ANRÊ tiếng Hy lạp có nghĩa là…
Yêu thương và phục vụ
2.1.2021 Thánh Cả Basil và Grêgôriô Nazianzen, Gmtsht
1 Ga 2:22-28; Tv 98:1,2-3,3-4; Ga 1:19-28
YÊU THƯƠNG VÀ PHỤC VỤ
Phụng vụ hôm nay nhắc cho chúng ta chân dung của hai vị thánh xuất thân từ Đông Phương, thánh Basiliô (sinh năm 330 tại Xêdarê, miền Capađôcia) và thánh Grêgôriô (sinh năm 330, tại Na-zi-an). Cả hai vị, tuy theo hai con đường để đi tìm chân lý, nhưng đều có chung một đích điểm: hai vị là bạn và là những người có khát vọng đi tìm sự khôn ngoan của Thiên Chuá.
Hai Thánh Basiliô cả và Grêgôriô Nazian đều được sinh ra tại Cappadoce, thuộc hai gia đình quí phái, danh tiếng, có địa vị vững chắc trong xã hội lúc đó.
Ngay trong ca nhập lễ các Thánh Giám mục đã có viết: “Ta sẽ kiểm điểm đoàn chiên của Ta và đặt một mục tử chăn dắt chúng. Còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng” (lời Chúa phán). Thánh Basiliô cả và Grêgôriô Nazian là các vị mục tử tốt lành Chúa đã đặt lên để chăn dắt đoàn chiên của Ngài.
Hai Thánh Basiliô cả và Grêgôriô Nazian đều được sinh ra tại Cappadoce, thuộc hai gia đình quí phái, danh tiếng, có địa vị vững chắc trong xã hội lúc đó. Hai vị Thánh đều học cùng trường tại Athènes Hy Lạp, thành đạt trong việc học, hai Ngài đều cùng về quê hương và sống với nhau trong một mái nhà tu viện. Dù rằng tính khí mỗi người khác nhau, nhưng hai vị Thánh đã sống nghĩa thiết chan hòa, sống theo gương mục tử nhân hậu hiền lành noi theo Chúa Giêsu. Thánh Basiliô có tài lãnh đạo, có óc tổ chức, chỉ huy, điều khiển. Thánh Grêgôriô Nazian lại thích chiêm niêm, sống âm thầm và là một tu sĩ sáng ngời các nhân đức.
Cả hai vị Thánh đều được chọn làm Giám mục của hai Giáo phận. Thánh Basiliô được đặt làm Giám mục năm 370 tại Césarée de Cappadoce. Thánh Giám mục Basiliô là một mục tử can trường, đầy dũng khí, hiên ngang. Nhờ lòng dũng cảm: lời giảng dậy, chữ viết và nhờ tài khéo léo, can thiệp trực tiếp của Ngài với Chính quyền, Ngài đã đem lại cho Hội Thánh một chỗ đứng vững chắc, tách quyền Giáo Hội ra khỏi thế quyền. Ngài giúp cho những người nghèo lấy lại phẩm giá của mình và bảo vệ đức tin của đoàn chiên cách sâu xa, vững chắc.
Thánh Grêgôriô Nazian được tấn phong Giám mục Sasime năm 371, và vào năm 380, Thánh nhân được cử làm Giám mục Constantinople giữa sóng gió do bè rối Ariô gây nên. Ngài có tài hùng biện, mọi người đều theo Ngài. Thánh nhân được đặt cho một cái tên hết sức thân thương: “Cha của những kẻ khốn cùng”.
Thánh Basiliô qua đời ngày 01/1/379 và Thánh Grêgôriô Nazian tạ thế ngày 25/1/390.
Cả hai vị Thánh đã sống hiền lành, khiêm nhượng theo gương Chúa Giêsu Cứu Thế. Cuộc sống của các Ngài đã họa lại gương mặt đầy yêu thương của Chúa. Thánh Grêgôriô đã để lại câu nói bất hủ: “Nếu vì tôi mà bão táp này (bè rối Ariô) nổi dậy, hãy ném tôi xuống biển, để anh em khỏi bị khổ sở”.
Giáo Hội Chính Thống đã đặt ba vị Thánh Basiliô cả, Grêgôriô Nazian và Gioan Kim Khẩu lên hàng đầu giữa các bậc tiến sĩ trong Giáo Hội Chúa Kitô. Vì những công nghiệp, tài đức và nhân đức của các Ngài, Hội Thánh còn gọi các Ngài bằng tên rất đẹp, ấn tượng và thân thương: “đuốc thiêng của Hội Thánh”.
Tin Mừng ngày hôm nay cũng cho chúng ta thấy một mẫu gương khiêm tốn là thánh Gioan Tẩy Giả. Một nơi khác trong Tin Mừng, đã có lần Đức Kitô khen ngợi thánh Gioan là vị ngôn sứ cao trọng nhất trong số các ngôn sứ (Mt 11,11). Nhưng thái độ của Gioan trong Tin Mừng hôm nay (Ga 1,19-28) cho thấy sự khiêm nhường tuyệt vời của vị Tiền Hô: “Tôi đây làm phép rửa torng nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi, và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” (Ga 1,26-27).
Đúng là sứ vụ của một ngôn sứ, tiên báo Đấng Mêsia sẽ đến: Thánh Gioan Tẩy giả đã đóng đúng vai trò của mình, ngài nhìn nhận sự thật về sứ vụ là dọn đường cho Đức Kitô đến, bằng việc dọn lòng cho dân chúng hoán cải và sẵn sàng tin vào Tin Mừng cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến trong trần gian. Thắc mắc của những người được sai đến với ông Gioan đã được giải thích thoả đáng, một khát vọng mong chờ chung của Dân Hípri: Mong Đấng Mêsia xuất hiện. Gioan không phải là Đấng Kitô, nhưng phép rửa mà Ngài thực hiện mang tính duy nhất, đúng hơn là mang tính cánh chung, để kêu gọi lòng dân trở lại với đường ngay nẻo chính; chuẩn bị cho dân đón nhận một Phép Rửa trong nước và thần khí mà Đức Kitô sẽ thực hiện.
Sứ vụ của Gioan, cũng như tấm gương của hai vị thánh mà Giáo Hội kính nhớ hôm nay cho chúng ta suy nghĩ về thái độ sống của chúng ta, với danh nghĩa là Kitô hữu. Chúng ta nghe nói nhiều đến sứ vụ ngôn sứ của Dân Thiên Chuá, và cũng là của từng Kitô hữu chúng ta (GLCG, số 785), một sứ vụ mời gọi chúng ta sống làm sao để trở nên nhân chứng của Đức Kitô giữa lòng đời vốn có nhiều biến chuyển này.
Trước hết, thiết nghĩ mỗi người chúng ta nên suy tư về việc đào sâu đời sống Đức tin của mình, cùng với cảm thức siêu nhiên của Đức Tin. Khi chúng ta có một cảm thức Đức Tin về Thiên Chuá, Đấng yêu thương và cứu chuộc chúng ta, như Đức Thánh Cha nói đến trong Tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng”, chúng ta có thể mạnh mẽ ác tín và hăng say làm chứng cho tình yêu Thiên Chuá trong cuộc đời: “Động lực đầu tiên cho việc loan báo Tin Mừng chính là tình yêu của Đức Giêsu mà chúng ta đón nhận được, cảm nghiệm được Chúa Giêsu cứu độ thúc giục chúng ta yêu mến Người ngày một hơn. Nhưng tình yêu đó là gì nếu không chỉ dừng lại ở việc cần thiết phải nói về Ngài, giới thiệu về Ngài và làm cho người khác biết Ngài?”.
Nhìn chung, cách sống đạo của Kitô hữu tại Việt Nam rất phong phú, nhưng thiết nghĩ một tinh thần ham học hỏi để đào sâu đời sống Đức tin cần được khai triển và sống cụ thể hơn trong đời sống thường ngày, hơn là chỉ dừng ở những hoạt động đạo đức. Việc đạo đức thì luôn tốt, nhưng sẽ phong phú và sinh ích lợi nhiều hơn nếu chúng ta đi vào chiều sâu của đời sống Đức tin, qua việc hăng say học Giáo Lý, tập chia sẻ Tin Mừng, và ngay cả chia sẻ những cảm nghiệm Đức Tin trong nhóm đạo đức mà chúng ta đang tham gia. Dĩ nhiên, việc chia sẻ này bao hàm cả hai chiều kích: Tôi muốn chia sẻ cảm nhận về tình thương Chuá đã dành cho tôi, và những bạn bè trong nhóm cũng sẵn lòng để lắng nghe những cảm nhận đó với lòng tôn trọng.
Hơn nữa, thái độ khiêm tốn luôn là điều đáng khích lệ cho mỗi người tín hữu chúng ta. Khiêm tốn là nhìn nhận đích thực những gì mình có, như thánh Gioan Tẩy Giả đã chứng tỏ cho chúng ta thấy.
Đó không phải là nhìn nhận những gì mình có để vênh vang, tự cao tự đại; nhưng là để biết tạ ơn Chuá vì mọi ơn chúng ta có được đều là do ơn lành Chúa ban, chứ tự thân, con người không thể tự có được. Đồng thời ý thức rằng ơn Chuá ban là để làm cho mình nên tốt hơn, và để phục vụ Giáo Hội cùng xã hội. Hai điều này luôn phải đi đôi với nhau. Một đàng, mỗi người ý thức thân phận yếu hèn của mình để luôn cảnh giác với những thói hư tật xấu vốn có thể ngấm ngầm làm cho chúng ta ra kiêu ngạo, tự mãn. Đàng khác, phục vụ điều thiện, phục vụ công ích, mà tiên vàn là phục vụ những người thân cận của mình, là bổn phận và sứ mạng của mỗi Kitô hữu. Thái độ phục vụ cũng là điều đáng để chúng ta suy nghĩ để rồi chúng ta tìm cách phục vụ tha nhân.