Cầu nguyện liên ANRÊ tiếng Hy lạp có nghĩa là…
Yêu như Thầy
5.5 Chúa Nhật thứ Sáu Mùa Phục Sinh
Cv 10:25-26,34-35,44-48; Tv 98:1,2-3,3-4; 1 Ga 4:7-10; Ga 15:9-17
Yêu như Thầy
Trước khi đi vào con đường khổ giá, Chúa Giêsu đã không để lại một tài sản có thể liệt kê, cũng chẳng để lại một kho tàng có thể hoá giá, mà chỉ để lại một tâm sự gởi gấm được coi như bí mật cuối cùng và quý giá nhất của Ngài. Đó là lệnh truyền: “Anh em hãy yêu thương nhau”. Trước đây Chúa Giêsu đã đề cập nhiều đến giới luật yêu thương rồi, nhưng trong giờ phút chia tay thì đó là mối bận tâm lớn nhất của Ngài. Yêu thương nhau là dấu hiệu rõ nhất để nhận ra ai là kẻ thuộc về Ngài “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau”.
Chúa Giêsu muốn thấy các môn đệ mình yêu thương nhau và Ngài muốn cảnh giác mối nguy cơ chính yếu luôn rình rập các môn đệ, đó là sự thiếu lòng yêu thương nhau. Vì vậy, đây là một trăn trở lớn nhất cần được nói ra một lần thay cho tất cả. Và Chúa Giêsu đã nói: “Điều răn của Thầy là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 15, 12). Thế là lời trăn trở củaThầy đã biến nên lời trăn trối cho các môn đệ trong phút biệt ly. Như một tâm sự sau cùng cần phải ghi nhớ, như một di chúc thiêng liêng tuyệt đối không bao giờ được đặt lại vấn đề và là một lệnh truyền nhất thiết phải thể hiện bằng được trong cuộc sống. Nên ” yêu thương nhau” đã là một bổn phận chi phối toàn bộ đời người môn đệ Chúa Giêsu và làm nên căn cước cho họ ” Ai yêu thương thì bởi Thiên Chúa mà ra”.
Sống yêu thương thì dễ hiểu rồi, bởi vì là con người thì ai ai cũng biết mình có bổn phận phải yêu thương. Yêu thương là điều răn quan trọng nhất, là điều răn gồm tóm tất cả mọi điều răn khác. Nhưng phải yêu thương ai? Chắc chắn đây không phải chỉ nói với những người lập gia đình, sống đời hôn nhân nhưng Chúa Giêsu nói với tất cả mọi người. Vì thế ta phải hiểu chữ yêu thương nhau theo nghĩa rộng, chúng ta phải yêu thương tất cả mọi người. Giới răn của Chúa là như vậy. Nhưng nhìn lại thực tế, chúng ta chỉ yêu thương một số người như cha mẹ, anh chị em ruột, một vài bè bạn thân thiết, vài người yêu thương của chúng ta. Còn lại biết bao nhiêu người khác chúng ta chưa yêu thương, chúng ta không muốn yêu thương, và thậm chí chúng ta còn thù ghét nữa.
Vì thế, vấn đề đặt ra là làm thế nào để chúng ta có thể yêu thương hết tất cả mọi người như Chúa đã dạy chúng ta? Hơn nữa, Chúa bảo chúng ta hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương chúng con. Vậy yêu thương như Chúa Giêsu là yêu thương như thế nào? Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Thầy không coi các con là tôi tớ, nhưng Thầy coi các con là bạn hữu của Thầy”. Chúa Giêsu là Thầy, là Chúa; còn các môn đệ là người, là học trò. Cho nên nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ thì cũng được. Nhưng không, Chúa không muốn coi họ là tôi tớ thấp hèn, mà muốn coi họ là bạn hữu ngang hàng với Chúa. Nghĩa là Chúa tôn trọng họ. Tình yêu của Chúa là tình yêu đi đôi với lòng tôn trọng.
Vậy nếu chúng ta muốn yêu thương tất cả mọi người thì chúng ta cũng phải tôn trọng tất cả mọi người, như Đức Giêsu đã tôn trọng.
Chúa Giêsu yêu nhân loại đến nỗi Ngài đã chấp nhận xuống thế làm người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi: sinh ra nơi hang đá nghèo hèn trong đêm đông lạnh lẽo; sống trong một gia đình thiếu thốn ở Nazaréth với cha nuôi của Ngài là bác thợ mộc Giuse, mẹ của Ngài là bà Maria, một thôn nữ nhà quê; gần 30 năm làm nghề thợ mộc để phụ giúp gia đình.
Trong ba năm đời sống công khai, vì tình yêu nhân loại nên Chúa Giêsu đã đi khắp nơi để thực hiện ý định yêu thương: Ngài đi rao giảng khắp mọi nơi, đến với hết mọi hạng người không phân biệt dân tộc màu da hay địa vị giàu nghèo; Ngài đến với những người đau yếu bệnh tật để cứu chữa họ; Ngài tha thứ cho những người tội lỗi, cho những kẻ xúc phạm đến Ngài; Ngài đã tuyển chọn, huấn luyện các Tông đồ và thiết lập Giáo hội; Ngài đã thiết lập các Bí tích là máng chuyển thông ơn Chúa cho loài người; Ngài đã rửa chân cho các môn đệ và dạy họ hãy làm như thế với nhau; Ngài đã chấp nhận bước vào con đường khổ giá một cách tự nguyện để cứu độ nhân loại. Đó là bằng chứng tình yêu Ngài dành cho nhân loại, đúng như Thánh Gioan tông đồ đã nói: “Căn cứ vào điều này chúng ta biết tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta”(1Ga 3,16).
Sau khi sống lại, vì yêu thương nên: Ngài đã hiện ra với nhiều người, nhất là hiện ra với các Tông đồ để củng cố đức tin cho họ và cho mọi người qua mọi thời đại; Ngài ban Thánh Thần cho các Tông để các ông thêm can đảm làm chứng cho Tin mừng; Ngài soi sáng cho các Tông đồ và mỗi người chúng ta am hiểu Kinh thánh; Ngài còn nâng chúng ta lên thành bạn hữu của Ngài: “Thầy không gọi chúng con là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Còn các con, Thầy gọi các con là bạn hữu.” (Ga 15,15).
Tóm lại, những lời nói, những việc làm của Đức Giêsu trong suốt 33 năm sống trên trần thế đều vì yêu thương nhân loại chúng ta.
Khi chúng ta yêu Thiên Chúa là chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa, là anh em cùng một Cha, nhưng khi chúng ta cùng Chúa Cha và Chúa Con yêu thương đồng loại, yêu thương những người chưa nhận biết Thiên Chúa, thì chúng ta đã trở thành môn đệ, là bạn hữu như lời Thầy Giêsu đã nói: “Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga. 15,15).
Chúa Giêsu muốn chúng ta hãy noi theo tình yêu của Chúa Cha. Biết đối xử với nhau như Chúa Cha đối xử với chúng ta. Hãy yêu thương hết mọi người không loại trừ một ai. Nhất là hãy yêu thương những người bé nhỏ, cùng khổ, bất hạnh. Hãy biết tha thứ những lỗi lầm của người khác. Tha thứ không phải chỉ một lần mà tha thứ rất nhiều lần. Và hãy dám hy sinh, chấp nhận chịu thiệt thòi vì tình yêu. Yêu như Chúa yêu. Đó mới là tình yêu đích thực. Chỉ có tình yêu bắt nguồn từ Chúa mới bền vững và đem lại hạnh phúc cho nhân loại.