skip to Main Content

Sự thật sẽ giải phóng các ông 

6.4 Thứ Tư trong tuần thứ Năm Mùa Chay

Đn 3:14-20,91-92,95; Đn 3:52,53,54,55,56; Ga 8:31-42

Sự thật sẽ giải phóng các ông 

Tin Mừng hôm nay cho thấy thái độ của Chúa Giêsu đối với những người Do Thái mới tin vào Ngài. Lòng tin của họ chưa được trọn vẹn và Ngài đề nghị những biện pháp để củng cố niềm tin đó, như sống theo lời Chúa, chấp nhận được giải thoát khỏi tội lỗi, phát triển mối tương quan với Ngài. Tuy nhiên, các người Do Thái không đủ khiêm tốn để chấp nhận đề nghị của Chúa, họ tự phụ cho mình là con cái của Abraham và do đó không cần ai dạy thêm điều gì nữa, cũng chính vì thế họ không thể tiến xa hơn trên con đường đức tin.

Chúa Giêsu đã đương đầu sự chống đối và thù ghét của họ bằng sự can đảm và quyết tâm thực thi ý Cha. Người sẵn sàng ôm lấy thập giá để hủy diệt công việc của Satan và giải cứu người Do Thái và dân ngoại ngang qua lễ đền tội của Người cho tội lỗi của thế gian. Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta con đường tới vương quốc của Thiên Chúa – ngang qua đức tin và sự vâng phục lời Chúa và ý Chúa dành cho cuộc đời chúng ta. Trở nên người môn đệ của Chúa Giêsu đòi hỏi đức tin và sự vâng phục – chúng là hai mặt của cùng một đồng tiền. Hạn từ môn đệ theo nghĩa đen là người học hỏi Thầy mình và lắng nghe tiếng nói của thầy. Và hạn từ vâng phục theo nghĩa đen là lắng nghe và lệ thuộc vào người có thẩm quyền đúng đắn để giảng dạy và tuyên bố điều gì là ngay chính và chân thật.

Chúa Giêsu đã nói: Ai ở lại trong Ta thì biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng cho kẻ đó được tự do. Sự tự do mà Chúa Giêsu muốn nói ở đây là sự sống trong ân sủng của Thiên Chúa. Khi chúng ta phạm tội mất ơn thánh, nghĩa là chúng ta phải sống xa Chúa là sự tự do tuyệt đối. Khi phạm tội, chúng ta bị trói buộc vào con đường của ma quỉ, của những đam mê dục vọng. Chúng ta chỉ có thể sống hạnh phúc và tự do khi sống đúng địa vị làm con Thiên Chúa. Sự tự do ấy chỉ có được trong Chúa Giêsu, khi chúng ta liên kết cuộc đời chúng ta với Ngài.

Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu nói cho người Do thái biết điều gì đã trói buộc họ khiến họ phải làm nô lệ, và điều gì sẽ giải thoát họ để họ được tự do. Điều giải thoát họ khỏi nô lệ và được tự do: “Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi”.

Giải phóng cho chúng ta tự do… Sự tự do mà Chúa Giêsu muốn nói ở đây là sự sống trong ân sủng Thiên Chúa. Khi chúng ta phạm tội mất ơn thánh, nghĩa là chúng ta phải sống xa Chúa là sự tự do tuyệt đối. Sự tự do ấy chỉ có lại được trong Chúa Giêsu, khi ta gắn bó lại, liên kết lại cuộc đời chúng ta với Ngài. Chúng ta chỉ có thể hạnh phúc khi sống địa vị làm con Thiên Chúa – con cái tự do.

Khi nguyên tổ Adong-Evà phạm tội lỗi nghịch cùng Chúa, ma quỉ đã đem tội lỗi vào trần gian. Và khi tội lỗi xâm nhập trần gian, con người đắm chìm trong tội, nô lệ cho mọi khuynh hướng xấu, bị giam hãm trong tội nguyên tổ, sự xuống cấp của một luân lý suy đồi “tội trần gian” và làm tôi cho ma quỉ. Tự sức mình con người không thể tự giải thoát mình, nên cần đến ơn Cứu độ. Đức Giêsu đã phải trả giá đắt để chuộc con người và đem con người trở nên con cái tự do. Chúa Giêsu cũng khẳng định: “Kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi” (Ga 8,35).

Muốn được sống tự do, muốn giải thoát con người của mình khỏi những trói buộc của lỗi lầm và khuyết điểm, thì điều cần thiết trước tiên là phải biết sự thật về mình. Nhà văn văn Shakespeare nói: “Người dại thường nghĩ rằng mình khôn, còn người khôn lại tự biết mình dại”. Như vậy, chúng ta cần phải khôn ngoan. Có nhiều người bỏ xưng tội rước lễ cả mấy chục năm, nhưng khi đề nghị với họ nên xét mình xưng tội, thì họ trả lời: “Con chẳng có tội gì!”

Người Do Thái tự cho mình là tự do, là dòng dõi Abraham và là con Thiên Chúa, nhưng rốt cuộc họ hành động bạo lực : họ ném đá Chúa Giê-su. Còn Chúa Giê-su cũng mặc khải mình là Con Thiên Chúa, nhưng hành động cách hiền lành. Chính những cung cách hành động như thế cho thấy, ai ở trong sự thật và ai ở trong gian dối. Gian dối đi đôi với bạo lực, còn sự thật đi đôi với hiền lành.

Tin rằng Thiên Chúa coi chúng ta là những người công chính trong Đức Giêsu-Kitô, có lẽ là phương cách thích hợp nhất với Tin Mừng, để cuối cùng có được sự xấu hổ đối với tội của chúng ta và nhất là có được nhiều lòng thương cảm hơn đối với tội của những người khác.

Chúa Giêsu khẳng định cho họ biết rằng: nếu họ ở trong Lời của Ngài, tức là sự thật thì họ thuộc về Ngài và trở thành môn đệ, bằng không sẽ trở thành nô lệ cho tội và bị truất phế bất cứ lúc nào!

Khi xác định như thế, Chúa Giêsu cảnh báo sự kiêu ngạo tự phụ của người Dothái. Bởi vì họ luôn nghĩ rằng mình thuộc hạng người ưu tuyển, dân riêng, nên có đặc quyền đặc lợi trước mặt Thiên Chúa và không ai có quyền đụng tới họ.

Khi sống trong tội và sự dối trá, con người luôn bất an dầu cho có tự do về mặt thể lý. Vì vậy, muôn đời, chỉ có sự thật mới giải phóng con người. Ấy vậy, vẫn còn quá nhiều người u mê chọn cho mình một thể chế chính trị hay một đường lối giả dối để suốt đời bất an. Bất an đến mức khi thấy sự thật họ phải che mặt lại như tù nhân quá lâu ngày trong hang tối lần đầu tiên thấy mặt trời. Hãy can đảm đối diện dù lúc đầu nước mắt chứa chan nhưng sẽ được ngẩng cao đầu và bước đi trong tự do. Là Kitô hữu, chúng ta được hạnh phúc hơn hết vì chúng ta có Sự Thật là chính Chúa Giêsu Chúa chúng ta. Người giải phóng và đưa ta vào vương quốc tự do. Xin cho mỗi chúng ta biết can đảm sống thật, để sự thật sẽ giải thoát chúng ta.

Sự giải thoát mà Chúac Giêsu ban cho các môn đệ là sự giải thoát khỏi quyền lực tội lỗi, Satan, và ảnh hưởng thế tục của những kẻ chống đối Thiên Chúa và những đường lối của Người. Chúng ta bất lực để tự giải thoát mình khỏi sự ràng buộc của Satan, tội lỗi, và cái chết (Rm 3,23; 5,6). Ðó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã mang lấy những tội lỗi trên mình và đóng đinh chúng vào thập giá (1Pr 2,24; Is 53,5-6; Col 2,14). Cái chết của Người trên thập giá đã mang lại chiến thắng và sự tha thứ cho chúng ta, và sự bình an với Thiên Chúa.

Ngang qua hy lễ của Chúa Giêsu, chúng ta không chỉ được tha thứ và hòa giải với Thiên Chúa – chúng ta còn trở nên con cái của Thiên Chúa nữa (Rm 8,14-16). Chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là Cha bởi vì Chúa Giêsu đã hòa giải chúng ta và cứu chuộc chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi và Satan.

 

Back To Top