skip to Main Content

Ơn cứu dộ đến với muôn người

9.2 Thứ Năm Thứ Năm trong tuần thứ Năm Mùa Quanh Năm

St 2:18-25; Tv 128:1-2,3,4-5; Mc 7:24-30

Ơn cứu dộ đến với muôn người

Ta thấy Chúa Giêsu không bao giờ tỏ ra kỳ thị con người. Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng. Cũng như các tác giả Tin Mừng khác, thánh sử Marcô cho thấy phần lớn hoạt động và thời giờ của Chúa Giêsu được dành cho người Do thái; chỉ sau khi sống lại, Ngài mới chính thức sai các Tông đồ truyền giảng Tin Mừng cho mọi người, bất luận là Do thái hay không Do thái. Thật ra ngay những năm rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã hé mở cho thấy chiều kích phổ quát của giáo lý và của ơn cứu độ mà Ngài mang lại. Ngoài những giáo huấn về tình huynh đệ đại đồng và thái độ không bài ngoại của Chúa Giêsu, Tin Mừng còn thuật lại các chuyến đi của Ngài tới vùng đất ngoại giáo, tại đây, Ngài cũng đã làm nhiều phép lạ, như trừ quỷ cho một thanh niên ở Gêrasa, cho một người câm ở miền Thập tỉnh nói được, và lần này trừ quỷ cho con gái của một phụ nữ Hy lạp gốc Phênixi.

Dựa vào những yếu tố trên, câu nói của Chúa Giêsu: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con” không thể giải thích đó là dấu biểu thi sự khinh miệt của Ngài đối với người khác đạo và khác tổ quốc; đúng hơn, Chúa muốn mọi người đừng quên ưu thế của người Do thái trong việc thừa hưởng ơn cứu độ, bởi vì Thiên Chúa đã chọn cha ông họ và muốn tỏ lòng trung thành với cha ông họ. Người Do thái được ưu tiên, chứ không phải là những người duy nhất được hưởng ơn cứu độ; vì thế, dù quan tâm săn sóc người Do thái nhiều đến đâu, Chúa Giêsu cũng không để trở thành vật sở hữu độc quyền của họ, Ngài vẫn có tự do bày tỏ tình thương đối với người khác.

Trong Kinh Thánh có nhắc đến một số người phụ nữ nhưng không có tên cụ thể như người phụ nữ còng lưng, người phụ nữ bị bệnh loạn huyết, và hôm nay thánh Maccô đề cập đến người phụ nữ Hy Lạp gốc Phênixi thuộc xứ Xyri. Mặc dù không nêu rõ tên tuổi nhưng người phụ nữ này được xem là nhân vật điển hình của những phụ nữ thuộc dân ngoại sống ngoài vùng Galilê. Không phải vô tình mà tác giả Tin Mừng nêu rõ nơi xuất thân của người phụ nữ nhưng là để nhấn mạnh đến niềm tin mãnh liệt của người đàn bà ngoại giáo trước quyền năng và tình thương của Chúa Giêsu.

Tin Mừng thuật lại, khi đến địa hạt Tia, Chúa Giêsu có ý đi âm thầm không muốn cho dân chúng biết. Có thể Người đến đó để nghỉ ngơi hay để tránh đụng độ với nhóm Pharisêu? Điều đó không quan trọng đối với một người đàn bà xứ Canaan. Bởi lẽ bà đã được niềm tin thúc đẩy và dẫn dắt bằng mọi giá đến để gặp Chúa Giêsu. Bà đau xót với đứa con gái nhỏ đang bị một thứ quỷ hành hạ thân xác và tâm hồn. Bất chấp tất cả mọi cản trở về văn hóa, luật lệ, tôn giáo và cả sự khinh miệt của những người Do Thái, bà đã đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu để nài xin ơn chữa lành. Chúa Giêsu kiên quyết từ chối với lý do vì Người chỉ được sai đến với con cái Israel, còn bà là dân ngoại: “Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con”.

Từ thời Cựu Ước, dân Israel luôn nguyền rủa và ghẻ lạnh đám dân Canaan vì họ thờ ngẫu tượng. Người Do Thái có ác cảm với người Canaan và gọi họ là “chó” nên không xứng đáng nhận được những thức ăn ở trên bàn, thậm chí cả bánh vụn. Bất chấp thái độ khinh miệt của người Do Thái, người đàn bà khiêm tốn thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ nhỏ”. Câu trả lời của bà làm thay đổi tình thế và thái độ nơi Chúa Giêsu. Chứng kiến một người đàn bà có niềm tin mạnh mẽ nên Chúa Giêsu đã phải thay đổi thái độ và nói: “Vì bà nói thế, nên bà cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi”.

Phép lạ này mang hai ý nghĩa quan trọng. Thứ nhất, vì người đàn bà có lòng tin mạnh mẽ mà Chúa Giêsu đã chữa con bà khỏi quỷ ám. Bà xứng đáng được hưởng ân huệ như con cái trong nhà hơn là một người khách xa lạ.

Thứ hai, khi thực hiện phép lạ này, Chúa Giêsu chứng tỏ cho dân chúng biết sứ vụ cứu độ của Người vượt ra ngoài khuôn khổ và địa giới của dân tộc Do Thái đầy với vẻ tự mãn. Người cũng hướng đến chiều kích phổ quát của sứ mệnh truyền giáo là phải ra đi đến với muôn dân, đặc biệt những người chưa được nghe Tin Mừng, những người nghèo, người đau khổ, bệnh tật và người tội lỗi. Từ đây ơn cứu độ không phải là đặc quyền đặc lợi cho một số người được tuyển chọn mà là những người thực sự khát khao tin tưởng.

Người đàn bà hết lòng thương đứa con gái bé nhỏ nên đã không sợ hãi điều gì, bà can đảm xin Chúa Giêsu thực hiện một điều truyền thống Do Thái không cho phép và bà đã được toại nguyện. Chính niềm tin vững mạnh và lòng mến chân thành của người đàn bà đã mở được cánh cửa sự sống cho con gái bà. Thiên Chúa là Cha nhân từ còn yêu thương con người nhiều hơn gấp bội tình thương của người bà dành cho đứa con gái bị quỷ ám. Thiên Chúa biết rõ chúng con đang bị nhiều thứ quỷ hành hạ. Đó là thứ quỷ của sự gian dối, của thói lam tham ích kỷ, thứ quỷ của đam mê dục vọng và những sự thế gian.

Cuộc sống hôm nay còn nhiều những thứ quỷ cần phải loại trừ, nó được ngụy trang khéo léo bằng những hành vi đạo đức giả, bằng những lời nói ngọt ngào xảo trá. Đừng ngần ngại chạy đến với Chúa Giêsu để được chữa lành, được tha thứ và được yêu thương. Biết bao những vấn đề đổ vỡ trong gia đình cần được cảm thông và thấu hiểu. Những biết những trẻ em vô tội bị lạm dụng, bị giam hãm bởi sự ích kỷ của cha mẹ và những người có trách nhiệm.

Lòng thương xót của Chúa Giêsu không biên giới, không phân biệt, không loại trừ. Người đến để thực hiện sứ mạng quy tụ các con chiên tản mát ở khắp nơi về hợp một đoàn. Người đến không phải để phá hủy nhưng để kiện toàn, không phải để chia cách nhưng để nối lại những tương giao, tìm kiếm những gì đã hư mất, băng bó những vết thương.

Lời Chúa hôm nay khơi lên trong chúng ta thái độ phải có khi loan báo Tin Mừng. Đừng khép mình trong tháp ngà của sự an toàn tiện nghi nơi gia đình hay giáo xứ. Hãy ra khỏi biên giới của sự hẹp hòi ích kỷ để đến với con người, đặc biệt những ai bé nhỏ nghèo hèn.

 

Back To Top