Cầu nguyện liên ANRÊ tiếng Hy lạp có nghĩa là…
CHỌN CHÚA LÀ GIA NGHIỆP
30 27 Tr Thứ Năm. Ngày thứ sáu trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh.
lC 2, 36-40
CHỌN CHÚA LÀ GIA NGHIỆP
Chúng ta vừa mừng kính trọng thể Mầu Nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Mầu Nhiệm này nói lên tình yêu của Thiên Chúa giành cho nhân loại qua Người Con yêu dấu của Người là Chúa Giêsu Kitô, vì nhờ Người, mà thế gian được sống và được cứu độ.
Cuộc sống con người được đan dệt bằng những mối tương quan gặp gỡ. Có cuộc gặp gỡ tình cờ bất chợt, người đến rồi đi. Có cuộc gặp gỡ như đã hẹn hò từ kiếp trước tạo nên tình thân ái. Đó là cuộc gặp gỡ định mệnh khiến người ta còn ghi nhớ đến ngàn đời sau.
Tin mừng hôm nay thuật lại cuộc gặp gỡ ân phúc giữa trẻ Giêsu và bà Anna, một nữ ngôn sứ thuộc chi tộc A-sê. Tám ngày sau khi sinh trẻ Giêsu, bà Maria và ông Giuse đưa con mình lên đền thờ Giêrusalem để tiến dâng cho Thiên Chúa theo luật Môsê.
Đoạn Tin mừng này trình bày về hai nghi thức truyền thống xa xưa của Do thái đó là: nghi thức thanh tẩy cho người phụ nữ sau khi sinh con. Khi mang thai và sinh con, người phụ nữ bị xem là ô uế nên phải thanh tẩy sạch sẽ mới được giao tiếp với người khác. Nghi thức thứ hai quy chiếu theo luật Môsê “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa” (Xh 13, 2.12.15).
Tin Mừng hôm nay cũng được thánh sử Luca đề cao đời sống của nữ ngôn sứ tên là Anna. Bà tuy đã già, nhưng là một mẫu người Israel lý tưởng. Bà đã nhận ra giá trị của món quà mà Thiên Chúa trao tặng cho nhân loại, nên “bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa”. Theo tập tục của người Do Thái, người phụ nữ không thể ở lại trong khuôn viên Đền Thờ vào ban đêm, nhưng tác giả Tin Mừng thứ ba muốn nhấn mạnh đến sự chuyên cần trong việc phụng tự và cầu nguyện của người Do Thái thời đó, và còn cho rằng bà Anna có những đức tính tốt lành đó. Vì thế, cả cuộc đời còn lại của bà, là gắn bó mật thiết với Chúa vì bà đã chọn Chúa.
Trong ngày thanh tẩy người mẹ và tiến dâng con trẻ, gia đình bà Maria và ông Giuse đã có cuộc gặp gỡ thân thiện với hai vị ngôn sứ cao niên là ông Simêon và bà Anna. Cuộc gặp gỡ có vẻ như sự tình cờ bất chợt nhưng với thánh sử Luca thì đây là biến cố vô cùng quan trọng nói lên cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa với dân của Người.
Vốn là người công chính và sùng đạo, ông Simêon được ơn linh hứng sẽ gặp Đấng Kitô trước khi chết. Dù đã ở độ tuổi gần đất xa trời, trước khi nhắm mắtxuôi tay, ông Simêon cảm thấy không yên lòng nếu chưa nhìn thấy Đấng Cứu Độ. Được Thần Khí thúc đẩy, ông Simêon náo nức lên đền thờ để cầu nguyện và khiêm cung chờ đợi. Niềm vui vỡ òa khi ông được bồng ẵm Hài Nhi Giêsu trên tay. Bằng đôi mắt đức tin, ông Simêon đã nhận ra Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng soi đường cho dân ngoại và là vinh quang của Israel.
Ngoài ông Simêon còn có bà Anna cũng là một bậc đạo hạnh. Xuất giá lúc còn trẻ, bảy năm sau bà Anna trở thành góa phụ nhưng vẫn giữ lòng chung thủy với chồng. Bà thường xuyên giữ chay và hàng ngày chìm sâu trong cầu nguyện nơi đền thờGiêrusalem. Bà Anna đã vượt qua những điều luật khắt khe của Do thái không cho phụ nữ lưu lại trong đền thờ, nhờ thế bà đã gặp được Đấng Cứu Độ. Bà mạnh dạn nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem. Hài Nhi Giêsu chính là Đấng Mêsia, Người sẽ nối lại mối thân tình giữa Thiên Chúa và loài người. Mối dây hôn phối với người chồng ở trần gian bị cắt đứt, bà Anna lại tìm được mối thông hiệp thiêng liêng với Thiên Chúa.
Sau cuộc gặp gỡ thân tình giữa Hài Nhi Giêsu, cả ông Simêon và bà Anna đều đã được chứng nghiệm về Đấng Cứu Độ. Ông Simêon đang đối diện với sự già nua của tuổi tác, những giới hạn của phận người, còn bà Anna chịu sự chia ly xa cách cái chết của người chồng. Thế nhưng sau khi gặp Hài Nhi Giêsu, họ đã có một niềm vui tròn đầy viên mãn và cuộc sống mới tươi đẹp được mở ra thay cho những gì là già nua chết chóc. Cuộc gặp gỡ đã lưu lại nhiều kỷ niệm, niềm vui linh thánh chan hòa khiến họ cất cao tiếng hát chúc tụng tình thương Thiên Chúa. Còn với gia đình Nagiaret, sau khi làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, họ trở về quê hương bắt đầu cuộc sống đầy ân nghĩa cùng Thiên Chúa.
Nữ ngôn sứ Anna là hình ảnh của nhân loại mong chờ Đấng Cứu Độ. Cuộc gặp gỡ giữa Hài Nhi Giêsu và bà Anna cho chúng ta xác tín một điều: chỉ những ai có tâm hồn đơn sơ bé nhỏ, thành kính chay tịnh và âm thầm cầu nguyện mới gặp gỡ được Thiên Chúa. Ngược lại những ai để lòng mình lấp đầy với những sự thế gian như tiền bạc, ham muốn dục vọng chức quyền, người đó chỉ thấy bóng tối của dối trá và chết chóc. Khi sống thân tình với Thiên Chúa trong cầu nguyện, tâm hồn chúng ta sẽ được bình an hạnh phúc. Cũng vậy, khi sống yêu thương hòa nhã với anh em đồng loại cũng là lúc chúng ta gặp gỡ được Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã sinh ra trong hoàn cảnh khó nghèo, chuồng bò là nhà, máng súc vật là nôi và cỏ rơm là nệm. Đó không phải do số mệnh nhưng vì một tình yêu thẳm sâu. Người đã không chọn sinh ra trong cảnh giàu sang phú quý, trong nhung lụa ngọc ngà hay trong đền đài vua chúa. Người chọn cảnh nghèo để nên gương sáng cho chúng ta.Con Thiên Chúa đã muốn hòa mình với những người cùng khổ để thông chia mọi buồn vui của kiếp người. Chúa Giêsu đặc biệt yêu thương những người nghèo, người già yếu, người cô đơn góa bụa. Vì thế những ai tự mãn cho mình là người khôn ngoan giàu có, người đó sẽ không nhận ra tình thương của Thiên Chúa.
Hài Nhi Giêsu chính là Ánh Sáng xua tan bóng tối của đau khổ, đưa nhân loại thoát mọi u mê lầm lạc của tội lỗi và sự chết. Người cất đi cái ách nặng và gông cùm đang đè lên cổ loài người. Người chính là món quà tình yêu được Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta, tên Người là Cố vấn Kỳ Diệu, là Thần Linh dũng mãnh, là Người Cha muôn thuở và là ông Vua Thái Bình. Người đến khai mở một triều đại mới, đưa muôn dân nước về hưởng phần gia nghiệp của con cái Thiên Chúa.
Hài nhi Giêsu chính là ánh sáng của tình yêu, ánh sáng của niềm tin và hy vọng chiếu tỏa trên những ai có tâm hồn đơn sơ và khiêm tốn. Ước gì tình yêu của Đấng Cứu Thế ngự trị trong tâm hồn mọi người tín hữu, nơi mỗi gia đình, trong mọi quốc gia, mọi dân tộc. Ân phúc của Chúa Giáng Sinh cũng là mời gọi mỗi người chúng ta dâng lời cảm tạ hồng ân cứu thế, hăng say lên đường ra đi loan báo tin vui, tin bình an cứu độ để tình thương của Thiên Chúa lan tỏa khắp trần gian.
Chính khi chọn Chúa là tất cả đời mình, tâm hồn bà tràn ngập niềm vui, khiến cho bà quên cả thân phận góa bụa – già nua của mình để chỉ ngày đêm nghĩ đến việc thờ phượng và cảm tạ Thiên Chúa. Hơn thế nữa, khi có cơ hội được tiếp xúc với những người thành tâm thiện chí, nhất là những người từ thành Giêsuralem đến, bà không ngần ngại nói về “Hài Nhi cho những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc” (Lc 2, 38b).
Nữ ngôn sứ mà Tin Mừng thuật lại cho chúng ta hôm nay cũng là mẫu gương cho mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy là những người khôn ngoan, chọn Chúa là phần gia nghiệp đời mình và để tâm tìm cách làm đẹp lòng Chúa. Nhờ đó, dù ở đâu, làm gì … chúng ta vẫn hướng về Chúa là món quà duy nhất Thiên Chúa Cha ban tặng chứ đừng hướng chiều về thế giới vật chất. Vì thánh Gioan nói: “mọi sự trong thế gian: như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian; mà thế gian đang qua đi cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi” (1 Ga 2, 16).
Xin Chúa cho chúng ta nhận ra giá trị của tình yêu mà chọn Chúa, biến tình yêu thành hiến lễ hy sinh trong đời sống kết hợp với Chúa, chay tịnh và cầu nguyện … chúng ta sẽ trở nên mẫu gương thánh thiện cho những người khác.