Cầu nguyện liên ANRÊ tiếng Hy lạp có nghĩa là…
Sống Chứng Tá
16 11 X Thứ Bảy Tuần XXVIII Thường Niên.
(Tr) Lễ Đức Mẹ ngày thứ Bảy.
(Tr) Thánh Hec-vic (Hedwig), Nữ tu.
(Tr) Thánh Ma-ga-ri-ta Ma-ri-a A-la-côc (Alacoque), Trinh nữ.
Rm 4,13.16-18; Lc 12,8-12.
Sống Chứng Tá
Thánh nữ Hét-vích sinh ra trong một gia đình rất đặc biệt vào năm 1174. Gia đình của Ngài thuộc giai cấp quí phái,hoàng tộc.Cha mẹ của thánh nữ Hét-vích sinh được 8 anh chị em. Trong số đó có 2 anh làm tới chức Giám mục, một em gái làm Bề trên tu viện và một em là thánh nữ Élisabét, Hoàng Hậu nước Hung Gia Lợi Ngay từ nhỏ, thánh nhân đã tỏ ra là một cô gái thông minh,đạo đức và khí khái.
Năm 1186,Ngài kết hôn với Quận công nước Ba Lan.Với lòng đạo đức,thánh thiện và nhiệt thành, thánh nhân đã cảm hóa được người chồng hoang đàng, trắc nết. Thánh nữ sinh hạ được bảy người con,nhưng ý Chúa nhiệm mầu cất đi sáu người con, chỉ để lại một người con gái thứ ba, sau này sẽ trở thành Bề trên tu viện.Chúa có con đường của Chúa. Con đường của Người hướng dẫn mỗi người tùy theo ý Chúa. Thánh nữ say mê cầu nguyện, ăn chay, hãm mình. Ðây là nét rất nổi bật của thánh nhân,
Ý Chúa quan phòng trên cuộc đời của hai vợ chồng này.Năm 1209,thánh nữ Hét-vích và Quận công Henri đã cùng nhau đáp lại tiếng Chúa, thề nguyền sống thủ tiết để phục vụ và làm sáng danh Chúa. Hai vợ chồng mỗi người gia nhập một tu viện để thanh luyện tâm hồn và kết hợp với Chúa cách tốt đẹp hơn.Thánh nhân nêu cao tinh thần vui vẻ, phục vụ. Tuổi đã cao, bề Trên tu viện,chính là con thứ ba của Ngài đã muốn châm chước cho thánh nhân những luật nghiêm nhặt vì sợ Ngài tuổi già, sức yếu. Nhưng thánh nhân đã xin Bề Trên đối xử với Ngài như đối với mọi chị em khác trong tu viện. Thánh nhân có đức bác ái chói ngời: Ngài đã năng thăm viếng những người khó nghèo và chăm sóc, băng bó vết thương cho những người phong cùi .
Cuộc đời của thánh Hét-vích, nữ tu là một cuộc đời nêu cao gương nhân đức.Ngài yêu thương kẻ khó nghèo, sống khó nghèo, bác ái cao độ. Thánh nhân đã làm gương cho mọi người,mọi nữ tu về đời sống nghiêm nhặt giữ luật Dòng của mình. Thánh nhân đã chứng tỏ Ngài đã đục đẽo, gọt dũa và tạc nắn con người mình sao càng lúc càng giống Chúa Giêsu. Ngài đã làm được điều đó khi Ngài và Quận Công Balan nhất quyết đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa và mau mắn dấn thân vào tu viện để sống gần gũi và dễ dàng gắn bó với Chúa Kitô chịu đau khổ.Cuộc đời thánh thiện của Ngài đã chỉ ra rằng Thiên Chúa yêu thương Ngài cách đặc biệt,nên đã ban cho thánh nữ đặc ân làm nhiều phép lạ và biết trước giờ chết.
Ngày 15.10.1243, thánh nữ Hét-vích đã trút hơi thở cuối cùng sau hai tuần ngã bệnh.Hai mươi bốn năm sau khi thánh nữ qua đời, Ðức thánh Cha Clêmentê IV phong Ngài lên bậc hiển thánh và vào năm 1267 Ngài được đặt làm quan thầy các bà mẹ công giáo nước Ba Lan.
Với mẫu gương tỏa sáng của thánh nữ Hét-vích,Chúa cũng mời gọi mọi người Kitô hữu hãy sống thánh như nữ tu Hét-vích. Thánh nhân đã để lại cho nhân loại mẫu gương này là sự khó nghèo, yêu thương người nghèo, sự vâng phục ý Chúa và tình yêu thương vô bờ của thánh nữ đối với mọi người nhất là những người sầu khổ, bơ vơ, bệnh hoạn, phong cùi. Thánh nữ đã sống với người chồng là Quận công Henri người nước Ba Lan, một người chồng hoang đàng. Ðúng Ngài đã sống giữa bùn mà không hôi tanh mùi bùn. Trái lại với lòng đạo đức, thánh thiện, Ngài đã biến đổi tấm lòng của người chồng, khiến cả hai vợ chồng đều nhận ra ý Chúa và nhất quyết dấn thân cho Chúa.
Sau khi khiển trách các người pharisiêu và những nhà thông luật, Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ hãy có lòng can đảm tuyên xưng đức tin trước mặt mọi người, ngay cả trước những kẻ dữ mà không sợ bị bách hại. Bài trình thuật Phúc Âm hôm nay vì thế mời gọi tất cả chúng ta hướng về một đức tin xác quyết và một niềm hy vọng bất diệt vào quyền năng của Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu dạy bảo các môn đệ hãy can đảm làm chứng tá cho Thiên Chúa giữa lòng thế gian, bất chấp những sự bách hại của các quyền lực trần thế, đó là điều kiện để các ông được Chúa Cha trên trời đón nhận như Ngài nói: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa”.
Tất cả cuộc sống của người Kitô không nằm ở thái độ biểu dương đức tin để trở nên xứng đáng với trước mặt Thiên Chúa, nhưng là thái độ khiêm tốn và xác tín trong việc sống thực hành những lời răn của Thiên Chúa mà không đòi hỏi bất cứ sự đền bù nào. Khi Chúa Giêsu nói: “Bất cứ ai nói phạm đến Con Người thì còn được tha, nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần thì sẽ chẳng được tha”, Người ngụ ý dạy rằng tội lỗi thực sự của loài người là sự ngoan cố đối nghịch với Thiên Chúa và từ khước tình yêu thương và sự tha thứ của Người.
Chúa Thánh Thần là Ðấng của tình yêu thương và sự tha thứ. Ai khước từ Chúa Thánh Thần là hoàn toàn từ chối sự cứu rỗi mà Thiên Chúa hứa ban cho nhân loại. Hồng ân và sức mạnh đến từ Chúa Thánh Thần làm cho đức tin của chúng ta được tăng trưởng và đức tin đó được đun nóng từ Chúa Thánh Thần sẽ thúc đẩy chúng ta đến những hành động anh hùng bằng gương tử đạo. Gương tử đạo không xuất phát từ các yếu tố con người mà là kết quả đến từ những ai để cho ngọn lửa tình yêu của Chúa Thánh Thần bùng cháy trong tâm hồn mình đó là hồng ân của Chúa Thánh Thần ban cho những ai biết mở rộng con tim để đón nhận Người.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu biết rằng các môn đệ sẽ chịu nhiều thử thách, thế nên Người đã cảnh giác rằng các ông có thể sẽ mất đi những hồng ân của Thiên Chúa và rơi vào tình trạng nghi ngờ hay từ bỏ đức tin. Mặt khác, Người cũng bảo đảm rằng Chúa Thánh Thần sẽ ban cho các ông sự khôn ngoan và lòng can đảm để đối diện với những kẻ dữ trong giờ phút bị bách hại. Ðồng thời, Chúa Giêsu cũng lên án những kẻ nói phạm đến Thánh Thần. Sự phạm thánh đó bao gồm những hành động hay những tư tưởng chống đối Thiên Chúa tiềm ẩn trong con tim hay biểu lộ ra bên ngoài. Tội nói phạm đến Chúa Thánh Thần là thái độ của những kẻ cứng lòng từ chối tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa mà không thực lòng muốn sám hối.
Lòng nhân ái của Thiên Chúa thì vô bờ bến nhưng nếu một ai từ chối lòng thương xót của Người thì sẽ tự mình kết án chính mình. Hồng ân đến từ Chúa Thánh Thần sẵn sàng ban xuống cho những ai tin nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa và là Ðấng Cứu Thế.
Lời Chúa ngày hôm nay chúng ta nghe đọc, được tiếp nối với Lời Chúa ngày hôm qua có cùng một “chủ đề”: Chúa Giêsu khuyên các môn đệ hãy mạnh dạn sống và rao giảng Tin Mửng. Đừng sợ! Ngài trấn an các môn đệ vì biết chắc rằng, trong hành trình rao giảng của các ngài còn có Thiên Chúa, Đấng luôn quan phòng và nhờ Chúa Thánh Thần cùng đồng hành. Tình thương Thiên Chúa luôn quan tâm săn sóc con người và bao bọc con người, bảo vệ cho con người được an toàn và luôn vui hưởng hạnh phúc, hãy luôn tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa, người luôn gìn giữ chở che.
Vậy được sống trong ân tình của Thiên Chúa, người Kitô hữu cố gắng sống sao cho xứng danh là người môn đệ: không gian tham, không bóc lột, không tham nhũng, nhưng luôn sống bác ái, khiêm nhường tha thứ thay vì báo thù. Người môn đệ của Chúa luôn sống theo tinh thần của Chúa trong mọi hoàn cảnh, dù phong ba bão tố của cuộc đời, dù an bình thư thái, người môn đệ luôn biết tuyên xưng Chúa Giêsu là Thầy và là Đấng Cứu Độ.