skip to Main Content

12 bài giảng Lễ Truyền Tin (của Lm. Anmai, CSsR)

TỪ LÚC MẸ NÓI LỜI XIN VÂNG

Lễ Truyền Tin được kính vào ngày 25 tháng 3, tức là 9 tháng trước lễ Giáng Sinh, là khoảng thời gian Đức Mẹ cưu mang Chúa Giêsu.

Lễ này trước kia được mừng kính ở Giáo hội Đông phương với tước hiệu lễ “Ngôi Lời nhập thể” từ khoảng năm 550. Giáo hội Rôma mãi đến thế kỷ thứ 7 mới chấp nhận thánh lễ này.

Ngày nay, Lịch Phụng vụ Rôma lấy lại danh xưng “Lễ Truyền Tin” vì có lý do chính đáng, nhưng trước sau vẫn là lễ chung của Đức Kitô và Đức Trinh Nữ : Lễ của Ngôi Lời làm “con Đức Trinh nữ” và lễ Đức trinh nữ là “Mẹ Thiên Chúa”.

Từ thuở đời đời, Thiên Chúa đã có ý định tái lập tất cả những gì đã hư mất bởi tội lỗi, và phác họa một công trình cứu chuộc mà Chúa Kitô là trung tâm, với sự cộng tác cần thiết của một người nữ thánh thiện. Cả hai sẽ là Adong và Evà mới thay thế cho Adong và Evà cũ đã phạm tội.

Người nữ ấy không ai khác hơn là Mẹ Maria, Đấng đầy ân phúc, trổi vượt hơn mọi phụ nữ. Mẹ đã được tiên báo qua lời hứa tại vườn Địa đàng xưa :”Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người nữ. Người sẽ đạp nát đầu mi, còn mi sẽ rình cắn gót chân Người”(St 3,15). Mẹ đã được chọn làm Evà mới thực hiện lời hứa xưa kia tại vườn Địa Đàng.

Tin mừng theo thánh Luca (1,26-38) ghi lại biến cố truyền tin. Sứ thần Gabriel đến với một thiếu nữ đã đính hôn tên là Maria tại làng Nazareth để loan báo tin vui về việc hạ sinh Đấng Được Xức Dầu được đợi trông từng bao đời. Sứ thần loan tin cho thiếu nữ : “Này đây, bà sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, và bà sẽ đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”.

Trong ngày lễ Truyền Tin, Hội Thánh kính nhớ một biến cố quan trọng. Thiên thần báo tin cho Đức Mẹ rằng: Thiên Chúa muốn chọn Đức Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Tin đó quá bất ngờ, vượt mọi suy nghĩ, mọi tưởng tượng, mọi đợi chờ. Phản ứng của Đức Mẹ bắt đầu là bỡ ngỡ bàng hoàng lo sợ, nhưng tiếp đó là xin vâng (Lc 1, 38). Xin vâng là xin tuân phục ý Chúa. Xin vâng là xin cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa, với sự từ bỏ mình, với sự tuyệt đối phó thác đời mình trong tay Chúa. Lập tức sau lời “xin vâng” của Đức Mẹ, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế nhập thể trong lòng Đức Mẹ. Tất cả đều diễn tiến một cách âm thầm, khiêm tốn. Từ đó “xin vâng” đã được coi như một giao ước mới, một bài ca mới, một con đường mới, của con người mới.

Tin báo này làm Đức Maria ngỡ ngàng, vì Ngài đã quyết chí giữ đức khiết tịnh. Sứ thần đã giải thích về cách thức Thiên Chúa sẽ làm cho sự kiện mang thai lạ lùng xẩy ra :”Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không có thể”.

Mặc dù đã có lời trấn an của sứ thần, nhưng chắc chắn Đức Maria cũng hoảng hốt vì Ngài không biết đến việc vợ chồng. Tuy nhiên, Maria đã can đảm và suy phục thánh ý Chúa nên đã thưa với sứ thần :”Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, xin hãy làm trọn nơi tôi điều sứ thần truyền”.

Khi nói xin vâng được coi là một con đường mới, tôi nhớ lại biến cố Đức Mẹ sinh Chúa Giê-su tại hang đá Bê-lem (Lc 2, 1 – 7). Đang khi hầu hết mọi người đều coi giàu sang chức quyền danh vọng là những bậc thang giới thiệu gía trị con người, thì Đức Mẹ đã không nghĩ như vậy, đã không vận động chút nào để được như vậy. Trái lại, Đức Mẹ đã lặng lẽ đi vào con đường khó nghèo. Con đường đó đã khởi đi từ hang đá Bê-lem và kéo dài từng ngày, từng tháng, từng năm, suốt cả cuộc đời Đức Mẹ. Trên con đường đó, Đức Mẹ đã cầu nguyện, đã suy gẫm trong lòng, đã lắng nghe Chúa, đã thông hiệp với sự sống Chúa.

Lời xin vâng của Đức Mẹ, thoạt nghe, chẳng có gì đặc biệt đáng chúng ta phải chú ý. Nhưng nếu để tâm suy nghĩ và cầu nguyện, chúng ta sẽ thấy được tinh thần hy sinh, lòng bác ái, và đức tin sống động của Mẹ được gói gọn trong hai tiếng xin vâng đó.

Qua lời xin vâng, Mẹ Maria sẵn sàng gạt bỏ đi tất cả những gì Mẹ hằng ôm ấp cho riêng mình là sống đời đồng trinh, để chấp nhận cộng tác với Chúa trong việc sinh ra cho nhân loại Đấng Cứu Thế mà ai cũng trông chờ.

Chính vì điểm này mà Chúa đã ban cho Mẹ được cả hai, tức là vừa đồng trinh vừa làm Mẹ Thiên Chúa. Khi thưa lên tiếng xin vâng, Mẹ Maria hiểu được nhiệm vụ chính yếu của Mẹ là hiến mình làm dụng cụ đem Chúa đến cho nhân loại. Vì vậy, khi Ngôi Hai Thiên Chúa vừa đầu thai trong cung lòng Mẹ, Mẹ đã “vội vã” lên đường thăm viếng bà Isave. Không cần phải dài dòng, ai cũng hiểu được mục đích của cuộc viếng thăm này không phải là để Mẹ ca bài Magnificat cho bà Isave và cũng chẳng phải để nghe bà Isave tán tụng Mẹ là người có đức tin mạnh mẽ. Lý do chính yếu của cuộc viếng thăm này là để Mẹ đem Chúa đến cho gia đình ông Giacaria, đặc biệt là thánh Gioan Tiền Hô, khiến ngài phải nhảy mừng trong lòng bà Isave.

Lời Xin Vâng của Mẹ đã làm cho Con Thiên Chúa trở nên con của Mẹ và Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Lời Xin Vâng của Mẹ là sự đáp trả sự từ khước Thánh ý Thiên Chúa của Adong Evà ngày xưa.

Lời Xin Vâng của Mẹ chấm dứt vai trò của Cựu Ước và mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn của Tân Ước. Lời Xin Vâng của Mẹ là tiếng nói đầy thảo hiếu của một người con. Chương trình cứu độ chỉ có thể được thực hiện với hai tình yêu : tình yêu của Thiên Chúa và tình yêu của nhân loại. Thiên Chúa trao ban Con Một của Ngài, còn nhân loại thì mở rộng cõi lòng để đón nhận Người Con ấy.

Ngày xưa ma quỷ đã dùng phương tiện nào thì hôm nay Thiên Chúa cũng dùng phương tiện ấy. Đúng thế, ngày xưa ma quỷ đã dùng một người phụ nữ để làm cho nhân loại bị hư đi thì hôm nay Thiên Chúa cũng dùng một người phụ nữ để lật ngược thế cờ, mà làm cho nhân loại trở nên tốt lành. Ngày xưa Evà đã làm cho nhân loại phải chết thì hôm nay Maria sẽ làm cho nhân loại được sống. Ngày xưa Evà đã kiêu căng thì hôm nay Maria đã khiêm nhường. Ngày xưa Evà đã tin vào lời dụ dỗ của ma quỷ thì hôm nay Maria tin vào lời của sứ thần Thiên Chúa. Đó là những sự tương phản giữa cũ và mới, giữa ngày xưa và hôm nay, giữa Evà và Maria, để rồi chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô : “Ngày xưa bởi một người mà nhân loại phải chết thì hôm nay cũng bởi một người mà nhân loại được sống”.

Sau câu trả lời dứt khoát của Maria, Ngôi Lời đã nhập thể làm người và Maria đã trở thành Mẹ Thiên Chúa.

Thiên Chúa chờ đợi lời thưa “Xin Vâng” của chúng ta như Người đã chờ đợi lời thưa “Xin Vâng” của Mẹ Maria ngày xưa.

Lm. Anmai, CSsR

THEO CHÂN MẸ ĐÁP LỜI XIN VÂNG

Anh chị em thân mến, mỗi năm, phụng vụ Hội Thánh mời gọi chúng ta chiêm ngắm một biến cố kỳ diệu và vô cùng quan trọng trong lịch sử cứu độ: Biến cố Truyền Tin. Đây là khoảnh khắc mà Ngôi Lời của Thiên Chúa đã nhập thể, mặc lấy thân phận con người. Tại làng Nagiaret xa xôi năm xưa, có một trinh nữ đã nhận lời chào “mừng vui lên” từ sứ thần Gabriel; trinh nữ ấy chính là Đức Maria, người được muôn đời khen là diễm phúc (x. Lc 1,48). Chúng ta gọi biến cố này là Lễ Truyền Tin, nhưng thực ra, chính Mẹ Maria cũng đã “truyền tin” lại cho cả nhân loại bằng một lời thưa “xin vâng” đánh động lòng người. Thánh Augustinô đã có một câu nói thật sâu sắc về mối liên kết độc đáo giữa Đấng Tạo Hóa và người mẹ được tuyển chọn: “Ngài đã chọn một người mẹ mà Ngài đã tạo dựng, Ngài đã tạo dựng người mẹ mà Ngài đã chọn” (x. Bài giảng 69, 3,4). Mầu nhiệm Nhập Thể hoàn toàn do sáng kiến và lòng thương xót của Thiên Chúa, nhưng trong kế hoạch yêu thương nhiệm mầu ấy, Ngài lại muốn chờ đợi sự ưng thuận của một thiếu nữ khiêm nhường. Hôm nay, chúng ta cùng suy niệm để học với Mẹ về cách cất tiếng “xin vâng”, hầu cộng tác với ơn Chúa, trở thành những khí cụ đem ơn cứu độ đến với thế giới.

Tin Mừng Luca diễn tả sự kiện Truyền Tin xảy ra cụ thể trong không gian và thời gian: “Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nagiarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít; trinh nữ ấy tên là Maria” (Lc 1, 26-27). Nagiaret là một làng quê nhỏ bé, không có gì nổi bật, cũng chẳng được ghi lại như một trung tâm quan trọng. Thế nhưng, nơi ấy trở nên dấu ấn lịch sử, trở thành điểm hẹn của mầu nhiệm cao cả bậc nhất: Con Thiên Chúa đã làm người trong lòng một Trinh Nữ. Để hiểu sâu xa hơn biến cố này, chúng ta cùng trở lại với Thư gửi tín hữu Do Thái, nơi diễn tả cuộc đối thoại giữa Chúa Cha và Chúa Con. Bản văn ấy nhắc đến việc Chúa Con sẵn sàng đón nhận ý muốn của Chúa Cha để dâng hiến chính bản thân, vượt trên mọi của lễ hiến dâng xưa cũ: “Chúa đã không muốn hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội. Nên tôi nói: ‘Lạy Chúa, này con đây, con đến để thực thi thánh ý Ngài’” (Dt 10, 5-7). Lời tự nguyện “này con đây” của Chúa Giêsu mặc lấy hình hài cụ thể trong cung lòng Đức Maria, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần. Với lễ hy sinh trọn hảo này, Con Thiên Chúa mang lại ơn cứu chuộc vĩnh cửu, thánh hóa nhân loại, vượt trên mọi hy lễ thời Cựu Ước. Từ đó, mỗi người chúng ta được mời gọi bước vào mối giao ước mới trong Máu cứu độ của Đức Giêsu Kitô.

Trong Cựu Ước, các lời tiên báo về Đấng Thiên Sai xuất hiện dần dần. Ngôn sứ Isaia từng loan báo: “Chính Chúa sẽ ban cho các ngươi một dấu, này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và tên con trẻ sẽ gọi là Em-ma-nu-en” (Is 7,14). Em-ma-nu-en nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Hình ảnh ấy đem lại niềm hy vọng vô bờ: một ngày kia, Thiên Chúa không chỉ phán dạy dân Ngài từ xa, nhưng sẽ ở cùng họ, chia sẻ kiếp phàm nhân, chung một mái nhà trần thế. Khi “thời gian tới hồi viên mãn” (x. Gl 4,4), lời hứa ấy được nên trọn. Hôm nay, trong bầu khí phụng vụ, chúng ta hân hoan cử hành lễ trọng Truyền Tin. Niềm vui của lời hứa xưa trở thành hiện thực, vang vọng qua biết bao thế hệ, mời gọi chúng ta nhìn về Nagiaret với tấm lòng cảm tạ và tri ân.

Để hiểu rõ con đường “xin vâng” của Đức Maria, chúng ta có thể ngược dòng Thánh Kinh, trở về thời Cựu Ước, đến với Abraham, người được Thánh Phaolô gọi là “cha chúng ta trong đức tin” (x. Rm 11,12). Giữa Abraham và Đức Maria có một mối liên kết diệu kỳ: Cả hai đều nhận lời hứa từ Thiên Chúa, một lời hứa làm đảo lộn cuộc đời, đồng thời hoàn toàn vượt khả năng tự nhiên. Abraham được hứa sẽ có một con trai dù tuổi già và vợ son sẻ, để từ đó thành hình một dân tộc đông đảo. Đức Maria, thiếu nữ khiết trinh, lại được hứa sẽ sinh hạ Đấng Cứu Thế, “Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng Đavít tổ phụ Người, Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô tận” (Lc 1,31-33). Lời hứa này mở ra viễn cảnh khôn lường cho một cô gái quê miền Galilê, một lời hứa mang tính quyết định cho lịch sử nhân loại.

Chính vì vượt quá khả năng tự nhiên, lời hứa ấy khiến cả Abraham lẫn Đức Maria không khỏi bối rối. Abraham đã cười thầm khi nghe Chúa phán rằng vợ ông sắp sinh con (x. St 17,17), còn Sara vợ ông cũng cười khi đón tiếp ba vị khách lạ và được báo tin sẽ có con trong lúc tuổi đã già (x. St 18,12). Đức Maria cũng bàng hoàng thưa với sứ thần: “Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1,34). Câu hỏi này cho thấy Mẹ rất thành thật, muốn hiểu ý định Thiên Chúa, nhưng tận căn lại diễn tả một tâm hồn sẵn sàng. Mẹ không nghi ngờ quyền năng Chúa, cũng không từ chối sứ mạng, Mẹ chỉ xin biết rõ để cộng tác hết sức với ơn trên. Sau lời trấn an: “Việc gì đối với Thiên Chúa mà lại không thể làm được?”, Mẹ mau mắn đáp: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền” (x. Lc 1,36-38). Lời thưa ấy cô đọng biết bao ân sủng. Nếu Abraham được coi là “cha kẻ tin” nhờ đã dám ra đi “mà không biết mình đi đâu” (Dt 11,8), tin vào lời hứa mặc dù vô cùng khó khăn, thì Đức Maria được coi là “mẹ của những người tin”, vì Mẹ đã tín thác hoàn toàn cho lời hứa vượt sức hiểu của con người, đặt tất cả trong đôi tay quan phòng của Thiên Chúa.

Một sự song hành khác cũng thật thú vị: Abraham đón tiếp ba vị khách (x. St 18,1-5) và nhận được lời hứa sẽ sinh con. Đức Maria tiếp đón sứ thần Gabriel – vị sứ giả loan báo Đấng Cứu Thế, và cũng được hứa ban Con Thiên Chúa. Cựu Ước kín đáo nhắc đến sự hiện diện của Ba Ngôi Thiên Chúa trong cuộc viếng thăm Abraham, còn Tân Ước tỏ lộ rõ ràng quyền năng Chúa Thánh Thần bao phủ Đức Maria, để Ngôi Con nhập thể trong lòng Trinh Nữ, theo thánh ý Chúa Cha. Cuộc đối thoại ngày nào của Abraham với Chúa trong lều trại vùng Mambrê giờ đây được hoàn tất ở làng Nagiaret. Một lần nữa, Thiên Chúa viếng thăm nhân loại, nhưng lần này không chỉ ở lại ít ngày, mà còn mang lấy xác phàm, trở nên Em-ma-nu-en, trở nên “Chúa ở cùng chúng ta” mãi mãi.

Khi suy ngắm biến cố Truyền Tin, chúng ta dễ dàng nhận ra vai trò của Đức Maria như một mẫu gương tuyệt vời về đời sống đức tin và sự phó thác. Thánh sử Luca viết rằng, Mẹ đã bối rối, đã thắc mắc, nhưng rốt cuộc Mẹ vẫn tin tưởng và sẵn sàng. Mẹ không “xin dấu lạ” như Dacaria, cũng không cứng cỏi, hồ nghi. Mẹ chỉ hỏi cho sáng tỏ rồi chấp nhận đường lối của Chúa. Từ đó, Mẹ trở thành “Mẹ Đức Kitô và Mẹ của tất cả những ai tin” – vì chính lòng tin đã nối kết Mẹ với Abraham, cũng như nối kết Mẹ với đoàn con cái Hội Thánh. Trong cuộc sống, chúng ta có không ít lần đối diện với những thử thách, dường như vượt ngoài khả năng xoay xở. Lúc ấy, điều cốt lõi không phải là chúng ta phải “làm được” theo sức mình, mà là có sẵn lòng để cho Chúa hành động hay không. Lời “xin vâng” chính là cánh cửa mở ra cho ơn sủng tràn vào, biến đổi và thánh hóa mọi sự.

Cảm mến cuộc đời và sứ mạng của Mẹ Maria, chúng ta được mời gọi chạy đến với Mẹ trong mọi cảnh huống. Trước hết, hãy noi gương Mẹ để xác tín mầu nhiệm Nhập Thể: “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người”. Đó không chỉ là một công thức chúng ta đọc nơi Kinh Tin Kính, mà còn là lời tuyên xưng đòi hỏi sự gắn bó của cả con tim và khối óc. Trong một thế giới mà nhiều người không còn cảm thức về mầu nhiệm hay sự linh thiêng, lời tuyên xưng này mời gọi ta nhắc nhớ: Thiên Chúa đã đến với thế giới thật sự, trong thân phận con người có xương có thịt, để chia sẻ niềm vui, nỗi khổ, cùng mọi vui buồn sướng khổ của kiếp nhân sinh. Mẹ Maria là người trước tiên đón nhận mầu nhiệm này, nên Mẹ hiểu rõ hơn ai hết Chúa Giêsu là Em-ma-nu-en, là hơi thở của Thiên Chúa hiện diện giữa phàm nhân. Vì thế, khi chúng ta cầu nguyện với Mẹ, ta có thể xin Mẹ “cấy” vào lòng mình một niềm tin sống động vào Chúa Giêsu, giúp chúng ta can đảm rao giảng cho thế giới hôm nay một Tin Mừng lớn lao: “Thiên Chúa yêu thương con người đến nỗi đã ban Con Một.”

Tiếp đến, chúng ta cũng hướng về tổ ấm Nagiaret, nơi Chúa Giêsu lớn lên “càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân sủng trước mặt Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52). Mái ấm gia đình Nagiaret, nơi có Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse, là gương mẫu cho mọi gia đình ở mọi thời đại. Trong xã hội hôm nay, gia đình chịu nhiều biến động, bị bủa vây bởi lối sống hưởng thụ, ly tán, và cả những thử thách về kinh tế, xã hội. Gia đình dễ trở nên mong manh, thiếu vắng niềm tin, thiếu lòng bao dung và hy sinh. Chính vì thế, khi chiêm ngắm Thánh Gia, ta học nơi Mẹ Maria lòng yêu thương, tinh thần khiêm nhường, biết vun đắp bầu khí thánh thiện nơi gia đình. Mẹ sẵn sàng cộng tác với thánh Giuse để bảo vệ Hài Nhi Giêsu, rời bỏ quê hương trốn sang Ai Cập, rồi trở lại Nagiaret trong âm thầm và đơn sơ. Sự đồng hành đầy âm thầm nhưng hết sức mạnh mẽ ấy nuôi dưỡng ơn gọi và sứ mạng của Chúa Giêsu ngày sau. Hôm nay, chúng ta hãy dâng những gia đình của mình cho Thánh Gia, xin các Ngài che chở, để mỗi gia đình trở thành một “Nagiaret thu nhỏ”, nơi nảy nở đức tin và tình yêu, đồng thời trở nên cái nôi đào luyện những tâm hồn trẻ trung, dám sống các giá trị Kitô giáo giữa thời đại nhiều thách đố.

Cũng từ Nagiaret, Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai, rao giảng Tin Mừng cho dân nghèo, loan báo sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy, người bị áp bức được tự do (x. Lc 4,16-19). Nếu Mẹ Maria đã cùng Chúa tiến bước, luôn tôn vinh “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1,49), thì hôm nay, Mẹ cũng sẵn sàng dìu dắt chúng ta “đi ra” với đồng loại, nhất là những ai đang đau khổ, cùng cực. Khi thưa “xin vâng” với thiên ý, Mẹ không khép mình trong an nhàn, nhưng lặn lội lên đường thăm viếng bà Êlisabét, đem niềm vui cứu độ đến với người chị họ. Tinh thần “đi ra” ấy cũng thôi thúc chúng ta không ở lì trong vòng an toàn, không sống ích kỷ hay khép kín, nhưng dấn bước để làm chứng cho tình thương của Thiên Chúa, trao tặng cho anh chị em chúng ta niềm hy vọng và tình huynh đệ.

Trong xã hội ngày nay, trước những trào lưu chạy theo vật chất, hoặc khước từ các giá trị luân lý, chúng ta càng cần nhớ lại lời “xin vâng” dứt khoát của Mẹ. Lời “xin vâng” ấy không chỉ diễn ra một lần vào buổi Truyền Tin, mà còn kéo dài trong cả cuộc đời Mẹ. Đó là sự đồng ý tiếp tục nơi hang đá Bêlem, nơi cảnh thiếu thốn, nghèo hèn. Đó là nỗi xót xa nhưng vẫn tin tưởng nơi đồi Canvê, khi Mẹ đứng dưới chân thập giá. Đó là niềm cậy trông nơi căn phòng Tiệc Ly, chờ đợi Chúa Thánh Thần ngự đến. Với kinh nghiệm một đời tin tưởng và phó thác, Mẹ không ngừng dạy chúng ta sức mạnh và ân phúc của việc vâng phục ý Chúa. Dẫu đời sống ta có gặp những chông gai, phải đối diện biết bao biến cố khó hiểu, Mẹ vẫn khuyến khích ta “hãy làm những gì Người bảo” (x. Ga 2,5). Lời khuyên ngắn gọn ấy, nhìn qua bữa tiệc cưới Cana, đã giúp tỏ bày vinh quang của Chúa Giêsu và giúp những người phục vụ kín múc “nước lã thành rượu ngon”. Nếu chúng ta để Mẹ hướng dẫn, biết đâu “nước lã” của cuộc sống thường ngày cũng sẽ hóa “rượu ngon” của ơn thánh dồi dào.

Và giờ đây, đứng trước mầu nhiệm cao cả của biến cố Truyền Tin, chúng ta hãy thưa cùng Mẹ: “Thưa Mẹ, xin dạy chúng con biết nói lời xin vâng. Giữa một thế giới nhiều ồn ào, xin cho chúng con biết lắng nghe Lời Chúa, đón nhận ơn Chúa Thánh Thần, và bước đi trong niềm tin tưởng. Xin cho chúng con noi gương Mẹ, luôn sẵn sàng phục vụ, dấn thân vì hạnh phúc của gia đình mình và của anh chị em xung quanh. Xin cho chúng con dám ‘đi ra’ để loan báo Tin Mừng, ủi an và đỡ nâng những ai tuyệt vọng, nghèo đói, hoặc đang khát khao gặp được ánh sáng Phúc Âm. Xin Mẹ dạy chúng con biết rập theo Thánh Ý Chúa, hầu trở thành khí cụ xây dựng Nước Trời ngay trên mặt đất này.”

Nhờ lời “xin vâng” ấy, chúng ta xác tín rằng ơn cứu độ đã và đang tràn đến cho toàn thể nhân loại. Nếu ngày xưa Mẹ đã mở cánh cửa trái tim đón lấy Ngôi Lời, thì hôm nay Mẹ vẫn tiếp tục đồng hành, để mỗi người tin hữu cũng biết mở lòng đón Chúa, mang Chúa đến cho thế giới. Ước chi Lễ Truyền Tin trở thành dịp đặc biệt, giúp ta nhìn lại tương quan đức tin của mình với Thiên Chúa, sẵn sàng cộng tác với ân sủng và kế hoạch của Ngài. Để từ đó, đời sống của chúng ta, qua mọi hoàn cảnh, tỏa lan niềm hy vọng và tình yêu, để cho ánh sáng của Đấng Em-ma-nu-en bừng lên giữa đêm tối nhân gian.

Nguyện xin Đức Maria, Đấng trọn đời khiết trinh và đầy ân sủng, khẩn cầu cùng Chúa cho chúng ta có được niềm tin vững vàng, niềm cậy trông son sắt, và nhất là lòng mến nồng nàn hầu sống trọn ơn gọi làm Kitô hữu. Và xin Mẹ giúp chúng ta biết kiên trì học hỏi để ngày càng hiểu rõ mầu nhiệm nhập thể của Con Mẹ, Đấng đã chấp nhận sinh ra nghèo hèn, sống ẩn dật ba mươi năm tại Nagiaret. Xin Mẹ cũng gìn giữ các gia đình, những bạn trẻ đang chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân, để họ can đảm sống các đức tính Tin-Cậy-Mến, trung thành với giáo huấn của Chúa và sẵn sàng yêu thương, phục vụ. Xin Mẹ cầu cùng Chúa cho mỗi tín hữu biết thực hành bác ái cụ thể, biết đón nhận và bảo vệ sự sống từ khi thụ thai cho đến phút cuối của kiếp người, biết lưu tâm tới phẩm giá bất khả xâm phạm của con người. Và cuối cùng, xin cho chúng ta, nhờ gương Mẹ, luôn khiêm nhường phục vụ, tìm niềm vui ở việc làm đẹp lòng Chúa, hầu trọn vẹn “xin vâng” với bất cứ điều gì Thiên Chúa muốn.

Anh chị em thân mến, tất cả chỉ vì “này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng” mà cánh cửa ơn cứu độ đã được mở ra cho chúng ta. Chính Mẹ Maria đã cưu mang và trao ban cho thế giới Đấng Cứu Chuộc, Đấng không ngừng sống giữa chúng ta qua Lời và Thánh Thể. Mong sao hôm nay, và trong suốt cuộc sống, chúng ta luôn đặt mình trong bàn tay Chúa, để Ngài tự do hành động, biến đổi tâm hồn, hướng chúng ta đến ơn cứu độ. Với niềm tin tưởng, ta tiếp tục dâng lên Chúa lời ngợi khen, tạ ơn, và phó thác, hầu mọi vinh quang đều thuộc về Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng giàu lòng xót thương. Nhờ lời chuyển cầu của Đức Maria, nguyện xin Chúa đổ tràn ân sủng trên chúng ta, để ta cũng biết cùng Mẹ cất tiếng xin vâng, đưa Chúa đến khắp nẻo đường trần gian. Amen.

Lm. Anmai, CSsR

KÍNH CHÀO BÀ, ĐẤNG ĐẦY ÂN PHÚC, ĐỨC CHÚA Ở CÙNG BÀ!

Khi chúng ta lắng nghe lời chào đầu tiên của sứ thần Gáprien dành cho Đức Trinh Nữ Maria: “Kính chào Bà, Đấng đầy ân phúc, Đức Chúa ở cùng Bà!”, có lẽ chúng ta cũng cảm thấy phần nào nỗi bối rối mà Mẹ đã trải qua. Thật vậy, hẳn Mẹ Maria không khỏi ngạc nhiên trước lời chào trang trọng và uy nghi ấy. Đối với một thiếu nữ Nagiarét, tưởng chừng như rất tầm thường, rất đỗi bình dân, việc được một sứ thần đến thăm và gọi mình là “Đấng đầy ân phúc” quả là một điều vô cùng đặc biệt. Mẹ bối rối là đúng, vì Mẹ hiểu rằng điều này nằm ngoài sức tưởng tượng của Mẹ; xưa nay chưa có một thụ tạo nào được đón nhận một lời chào cao quý và tràn đầy vinh dự như thế. Lời chào ấy nhấn mạnh rằng Thiên Chúa đang ở với Mẹ, và Mẹ chính là người được Thiên Chúa sủng ái, gìn giữ, tôn vinh bằng hồng ân độc nhất vô nhị. Cùng với lời chào, sứ thần còn nói rõ: “Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao.” Lời loan báo này càng làm cho Mẹ thêm bối rối, vì Mẹ chưa từng biết đến việc vợ chồng, làm sao có thể mang thai và sinh hạ Con Đấng Tối Cao?

Để cho chúng ta thấy rõ hơn sự tự nhiên và chân thành giữa sứ thần Gáprien và Đức Maria, Tin Mừng Luca tường thuật việc Mẹ thưa lại: “Việc ấy sẽ xảy đến cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” Câu hỏi của Mẹ Maria là câu hỏi rất người, rất đời. Đó không phải là câu hỏi xuất phát từ sự nghi ngờ Thiên Chúa, mà từ sự thắc mắc về cách thức cụ thể: làm sao có thể sinh con khi Mẹ chưa bước vào đời sống hôn nhân? Chính sự chân thành này làm nên nét đẹp đặc biệt nơi Mẹ: Mẹ thực sự muốn hiểu, muốn nắm bắt, muốn biết rõ thánh ý Chúa để thực thi cách vẹn toàn. Và khi sứ thần quả quyết: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà, vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”, Mẹ không còn thắc mắc nữa. Câu trả lời ấy vượt lên trên mọi suy luận tự nhiên, dẫn Mẹ đi vào chiều sâu mầu nhiệm: đây không phải là sự can thiệp thuần túy của loài người, nhưng là ân sủng do quyền năng Thánh Thần thực hiện. Cuộc trò chuyện đến đây được coi như trọn vẹn, vì sứ thần còn xác nhận tiếp rằng bà Êlisabét, người xưa nay hiếm muộn, đã mang thai được sáu tháng, “vì không có gì mà Thiên Chúa không làm được.”

Chúng ta tự hỏi: Tại sao Đức Trinh Nữ Maria, một thụ tạo mỏng dòn, lại được diễm phúc nhận những lời chào chất chứa hồng ân cao vời như thế? Thưa, chính vì Mẹ là “kiệt tác” do chính Thiên Chúa uốn nắn, gọt giũa, ban tặng mọi ân sủng trong chương trình cứu độ. Bản thân Mẹ, với sự khiêm nhường thẳm sâu, với lòng tín trung mau mắn, đã để Chúa Thánh Thần hoạt động trọn vẹn trong tâm hồn. Mẹ là một tạo vật thấp hèn về phương diện nhân loại, nhưng tuyệt vời và duy nhất về phương diện ân sủng. Có thể nói, Mẹ mang nơi mình vẻ đẹp tuyệt đối cả phần xác lẫn phần hồn, không vương chút tỳ ố, tựa bình pha lê trong suốt dưới ánh mặt trời ân sủng, để đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa. Giáo Hội vì thế tuyên xưng Mẹ là “Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”. Ơn đặc biệt này là sự chuẩn bị hoàn hảo để Mẹ có thể cưu mang Đấng Thánh, Con Thiên Chúa, khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Mẹ. Nơi Mẹ, công cuộc Ngôi Hai Nhập Thể được hình thành một cách tinh ròng và thánh thiện.

Nhìn vào biến cố truyền tin, chúng ta thấy Mẹ Maria không chỉ diễm phúc ở chỗ được kêu mời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, mà còn diễm phúc vì có thể mau mắn thưa “xin vâng” với toàn bộ kế hoạch của Thiên Chúa, cho dẫu Mẹ hoàn toàn không biết tương lai sẽ dẫn đến những gì. Truyền thống Kitô giáo luôn nói đến sự “xin vâng” ấy của Mẹ như điểm son chói sáng. Một “xin vâng” tuy ngắn gọn nhưng lại hàm chứa cả chương trình cứu độ, chứa đựng sự chấp nhận sứ vụ cao cả nhưng cũng đầy gian khó. Bởi lẽ, làm Mẹ Chúa Cứu Thế không phải là con đường trải hoa hồng, hưởng vinh hoa phú quý trần thế, nhưng là con đường thập giá, con đường cộng tác với Con mình trong công trình cứu chuộc nhân loại. Thật vậy, ngay từ giây phút “xin vâng”, Mẹ đã bước vào mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Hai, Mẹ đã gắn chặt cuộc đời mình với cuộc đời Chúa Giêsu, và dĩ nhiên, sẽ mang lấy tất cả những gì Con của Mẹ trải qua: vui mừng, đau khổ, hi sinh, rồi cuối cùng là Tử Nạn và Phục Sinh.

Từ đây, chúng ta có thể chiêm ngắm Mẹ như người nữ đã hoàn toàn cộng tác vào chương trình của Chúa Cha trong Đức Kitô, cách rất cụ thể. Như bao bà mẹ khác trên trần gian, Mẹ Maria cũng trải qua những nỗi khổ tâm khi bồng ẵm con thơ, khi chăm lo cho con, khi đối diện với bao mối nguy hại rình rập, khi dõi theo từng bước đi sứ vụ của Con mình… Nhưng những đau khổ của Mẹ được đưa lên một mức cao hơn, vì Mẹ không chỉ đau đớn theo bản năng người mẹ, mà Mẹ đau đớn vì nhận ra sự hiến tế đớn đau Con mình phải chịu để cứu độ nhân loại. Mẹ thấu hiểu Con mình là Chiên Thiên Chúa gánh lấy tội trần gian, và Mẹ chứng kiến tận mắt Con mình bị sỉ nhục, bị kết án, bị đóng đinh. Chính vì vậy, Mẹ thường được gọi là Mẹ Sầu Bi. Nỗi đau của Mẹ sâu xa, vừa là nỗi đau mang tính hiệp thông với Chúa Giêsu, vừa là nỗi đau của một người mẹ nhìn Con bị giày vò đến tột cùng. Thế nhưng, nỗi đau ấy cũng chính là hồng phúc của Mẹ, vì nhờ đó Mẹ trở nên Người Nữ Thánh Thể, Người Nữ đồng công với Chúa Kitô. Mẹ ở bên Con cho đến giây phút thập giá, Mẹ hiệp dâng tất cả sự đau thương để cùng góp phần vào ơn cứu độ mà Con Mẹ thực hiện.

Chúng ta ngẫm xem: Hành trình diễm phúc của Đức Maria được khởi đầu từ biến cố truyền tin. Ngày mà sứ thần chào Mẹ là “Đấng đầy ân phúc” cũng là ngày Mẹ chính thức được mời gọi bước vào trọng trách cưu mang Đấng Cứu Thế. Nhưng “đầy ân phúc” theo nghĩa của Thiên Chúa không phải là có được cuộc sống nhẹ nhàng, an nhàn, không sóng gió. “Đầy ân phúc” là được Thiên Chúa đổ tràn ơn, giúp Mẹ vượt qua những thử thách khôn lường trên hành trình cộng tác vào dự án cứu độ. “Đầy ân phúc” là tình trạng Mẹ được Thiên Chúa biến đổi, ngự trị để Mẹ luôn sống trong sự hiệp thông mật thiết với Người, sẵn sàng hi sinh, sẵn sàng dấn bước mà không hề nao núng. Có thể nói, kể từ giây phút Mẹ thưa “xin vâng”, cuộc đời Mẹ gắn kết chặt chẽ với mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu: từ nhập thể, giáng sinh, hoạt động công khai, đến khổ nạn, phục sinh. Ở biến cố nào, Mẹ cũng hiện diện trong âm thầm, trong khiêm cung, nhưng dõi theo sát sao và tham dự sâu thẳm vào mọi sự.

Nhìn lại toàn bộ cuộc đời Mẹ Maria, chúng ta càng thấy Mẹ vĩ đại và diễm phúc dường nào. Mẹ không chỉ là người Mẹ cưu mang Đức Giêsu trong lòng, mà còn cưu mang cuộc khổ nạn của Con Mẹ trong trái tim. Mẹ không chỉ nâng niu Chúa Giêsu mới sinh trong máng cỏ Bêlem, mà còn đứng dưới chân thập giá để thông phần vào hi lễ hi sinh của Con. Mẹ không chỉ vui mừng khi Con sống lại, mà trước đó Mẹ đã cùng chung niềm thống khổ khi Con bị kết án. Tất cả cho thấy Mẹ tham dự trọn vẹn vào Mầu nhiệm Thánh của Chúa Giêsu. Bởi đó, Mẹ quả thực được diễm phúc cách khôn tả. Ngày nay, Giáo Hội tôn vinh Mẹ với những tước hiệu cao quý: Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đấng Cứu Chuộc, Nữ Vương Hòa Bình, Nữ Vương Các Thánh Tông Đồ, Mẹ Hội Thánh. Tất cả tước hiệu ấy đều xuất phát từ chính vai trò và sự cộng tác độc nhất vô nhị của Mẹ vào công trình Chúa Giêsu, và cũng từ tâm hồn vẹn sạch, khiêm nhu sâu thẳm của Mẹ.

Thật tuyệt vời khi chúng ta chiêm ngắm sự khiêm nhường ấy. Dẫu được sứ thần ca tụng ngay từ đầu: “Kính chào Bà, Đấng đầy ân phúc”, dẫu ý thức sâu xa rằng Thiên Chúa đã tuyển chọn mình để làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nhưng Mẹ vẫn tự nhận mình chỉ là “nữ tỳ của Chúa”. Và trong suốt hành trình, Mẹ luôn đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa, luôn suy đi nghĩ lại mọi biến cố trong lòng, luôn lắng nghe để nhận ra tiếng Chúa mời gọi, thậm chí chấp nhận mọi bẽ bàng, mọi gian nan như cuộc chạy trốn sang Ai Cập, như khi lạc mất Con trong đền thờ, hay đau khổ tột độ khi đứng dưới chân thập giá. Có thể nói, mọi sự trong đời Mẹ đều gói trọn trong hai chữ “xin vâng”, một tiếng thưa đơn sơ nhưng vô cùng mãnh liệt, gồm tóm một niềm tín thác tuyệt đối vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa.

Thế nên, hành trình mà Mẹ trải qua, chúng ta gọi là một hành trình “tràn đầy ân phúc” vì Mẹ liên tục được Thánh Thần bao bọc, liên tục được nuôi dưỡng bằng niềm tin và lòng mến. Mẹ đã sống hồng ân ấy cách trọn vẹn, để cuối cùng, đến ngày Chúa Giêsu hoàn tất cuộc khổ nạn và phục sinh, Mẹ hiện diện như chứng nhân kiên vững, tiếp tục đồng hành với cộng đoàn môn đệ những ngày đầu sơ khai. Truyền thống Giáo Hội dạy rằng sau khi hoàn tất sứ mạng trần thế, Mẹ đã được Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác, được vinh thăng trong vinh quang Phục Sinh của Con Mẹ. Cuộc đời Mẹ là tấm gương cho chúng ta, những người con của Giáo Hội, về niềm hy vọng sẽ được chia sẻ hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa, nếu chúng ta biết thưa “xin vâng” và bước đi trên con đường của Chúa, dù con đường ấy lắm lúc mịt mù, nhiều khi gập ghềnh.

Mỗi khi suy niệm về biến cố truyền tin và vai trò của Mẹ Maria, chúng ta không chỉ dừng lại ở việc tôn sùng Mẹ, nhưng hãy để tâm hồn mình được chạm đến mầu nhiệm này, để chúng ta khám phá giá trị của đức khiêm nhường, đức tin, và sự cộng tác vào chương trình của Thiên Chúa. Trong đời sống người Kitô hữu, chúng ta cũng được Chúa mời gọi cưu mang Chúa Giêsu trong tâm hồn, đón nhận Ngài qua Lời Chúa và Thánh Thể. Như Mẹ, chúng ta phải chuẩn bị một tâm hồn trong sạch, một thái độ khiêm tốn sâu xa, sẵn sàng cho Thánh Thần ngự xuống, biến đổi và thực hiện những điều diệu kỳ theo ý Ngài. Khi rước Chúa, chúng ta cũng được mời gọi phản ánh gương sáng của Mẹ: để Chúa Giêsu thực sự lớn lên trong chúng ta và để chúng ta được sai đi, chia sẻ tin mừng cứu độ, trở nên chứng nhân cho Chúa giữa lòng cuộc đời.

Chúng ta hãy nhìn lên Mẹ như mẫu gương cho đời sống Kitô hữu. Thứ nhất, về sự khiêm nhường: Mẹ nhắc chúng ta phải biết quý chuộng đức khiêm nhường, coi đó là nền tảng để đón nhận thánh ý Chúa. Sự khiêm nhường này không phải là hạ thấp phẩm giá bản thân, nhưng là nhận biết con người mình chỉ là thụ tạo yếu đuối và ý thức rằng mọi ân sủng đến từ Thiên Chúa. Thứ hai, về sự mau mắn tín trung: Mẹ dạy chúng ta sẵn sàng thưa “xin vâng” dù nhiều điều ta chưa hiểu hết, dù trước mắt ta còn nhiều khó khăn. Mẹ tin rằng nếu đó là thánh ý Chúa, Mẹ sẽ vững vàng tiến bước. Thứ ba, về sự cộng tác vào công trình cứu độ: Mẹ không chỉ dừng ở việc cưu mang Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng còn cùng Con chia sẻ sự đau khổ và dâng hiến, để mọi sự được hoàn tất trong ý định của Chúa Cha. Chúng ta cũng thế, đừng ngại cộng tác với Chúa trong các công việc thường ngày, trong hy sinh, trong cầu nguyện, trong dấn thân phục vụ tha nhân, để ơn cứu độ được lan tỏa khắp nơi.

Ngẫm lại, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi sống “mầu nhiệm truyền tin” trong chính cuộc đời mình. Dù không phải sứ thần Gáprien đích thân đến trao sứ điệp cho ta như với Mẹ, nhưng Lời Chúa trong Kinh Thánh, những lời giáo huấn của Hội Thánh, những ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần trong lương tâm vẫn đang “vọng” đến tai ta. Lắm lúc ta bối rối, lắm lúc ta e ngại, lắm lúc ta phân vân vì không hiểu Chúa muốn chúng ta làm gì, hoặc ta hiểu đó là điều khó, ta lo sợ gánh nặng quá tầm. Thế nhưng, hãy học nơi Mẹ sự khiêm nhường và lòng tin tưởng: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” Tất cả những việc Chúa mời gọi, từ nhỏ bé đến lớn lao, đều ẩn chứa một nét đẹp riêng, nếu ta sẵn sàng đáp lại với niềm phó thác. Khi ta để Thánh Thần tác động, chính Ngài sẽ hướng dẫn, ban sức mạnh, soi sáng và che chở ta, như đã che chở Mẹ Maria vậy.

Cũng trong tâm tình ấy, chúng ta được mời gọi dâng lên Thiên Chúa lòng tri ân vì Người đã ban cho nhân loại một kiệt tác mang tên “Mẹ Maria”. Kiệt tác ấy không chỉ rạng ngời về vẻ đẹp thánh thiện, vô nhiễm, mà còn rạng ngời trong cách Mẹ sống thân phận con người với trọn niềm tín trung, sẵn lòng hi sinh, dâng hiến, để chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa được thể hiện nơi lịch sử nhân loại. Mẹ đã can đảm trở thành người cộng tác đắc lực vào công trình Con của Mẹ, từ những ngày đầu tiên của cuộc Nhập Thể, trải qua bao gian khó, cho tới đỉnh cao của Thập Giá và ánh sáng Phục Sinh khải hoàn. Tất cả cung đường ấy, Mẹ bước đi với một trái tim khiêm nhu, cậy trông, và hoàn toàn vâng phục.

Chúng ta còn được biết, sau khi Chúa Giêsu về trời, Mẹ đã hiện diện giữa cộng đoàn tín hữu sơ khai, tiếp tục nâng đỡ, khích lệ các môn đệ Chúa, để họ vững tin và mạnh dạn làm chứng cho Tin Mừng. Hình ảnh Mẹ cầu nguyện cùng các tông đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần lại thêm một lần nữa cho thấy Mẹ quả thật là Người Nữ Thánh Thể, Người Nữ của Chúa Thánh Thần, luôn chuyên tâm cầu nguyện, cùng đồng hành với con cái Giáo Hội trong từng biến cố. Và suốt chiều dài lịch sử, Mẹ vẫn không ngừng hiện diện, chuyển cầu, chở che Hội Thánh trên mọi nẻo đường.

Vì thế, khi chúng ta tôn kính Mẹ Maria, đó không phải là tôn thờ ngang hàng Thiên Chúa, mà là nhận ra vị trí tuyệt vời của Mẹ trong công trình cứu chuộc. Thiên Chúa đã muốn Con mình có một người Mẹ, và Người đã chọn Mẹ Maria, ban cho Mẹ vô vàn hồng ân, để Mẹ có đủ tư cách và khả năng trở nên “bà Eva mới” – người cộng tác giúp nhân loại được cứu độ nhờ Chúa Giêsu. Biến cố truyền tin như mở ra một kỷ nguyên mới của ơn cứu rỗi. Từ giây phút “xin vâng”, Mẹ đã cưu mang trong cung lòng vẹn sạch Đấng Cứu Thế. Thân xác Mẹ trở thành nhà tạm đầu tiên của Chúa Giêsu, để rồi Chúa đến với chúng ta bằng xương bằng thịt, chia sẻ thân phận con người, gánh vác mọi đau khổ và tội lỗi chúng ta, đưa nhân loại bước vào mầu nhiệm Phục Sinh, đón nhận sự sống đời đời.

Hôm nay, chiêm ngắm biến cố truyền tin, chúng ta hãy đặt mình trong tâm tình tạ ơn. Tạ ơn Chúa vì công trình vĩ đại đã khởi đi từ một thiếu nữ đơn sơ tại làng Nagiarét. Tạ ơn Mẹ Maria vì Mẹ đã quảng đại cộng tác với Thiên Chúa, đã nêu tấm gương tuyệt vời về đức tin, về lòng tín thác, về sự khiêm tốn và đời sống cầu nguyện. Dẫu cuộc sống mỗi người còn nhiều bận rộn, còn lắm lo toan, xin đừng quên dõi nhìn lên Mẹ để chúng ta tiếp tục lấy lại niềm hi vọng, lấy lại động lực trong việc thực thi ý Chúa. Mỗi khi đối diện với khó khăn, chúng ta hãy nhớ lại lời sứ thần nhắc Mẹ ngày xưa: “Không có sự gì mà Thiên Chúa không làm được.” Và chúng ta hãy nhớ lại thái độ của Mẹ: Mẹ lặng thầm suy gẫm, lắng nghe, rồi mau chóng thưa “xin vâng.” Đó cũng chính là con đường ngắn nhất dẫn ta đến gần Chúa hơn, để tham dự và hưởng nếm trọn vẹn niềm vui cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến.

Sau cùng, chúng ta cùng hiệp thông dâng lời cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, Cha đã ban ơn cứu chuộc cho loài người qua Đức Giêsu Kitô, Con Cha. Và để chuẩn bị cho Con Cha làm người, Cha đã tuyển chọn một thiếu nữ khiêm nhường, đó là Đức Trinh Nữ Maria, Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, để Mẹ cưu mang Ngôi Hai và cộng tác cách trọn vẹn vào chương trình cứu độ. Chúng con cảm tạ Cha vì tình yêu khôn tả ấy. Xin Cha cho chúng con, nhờ lời chuyển cầu của Đức Maria, thánh Giuse và toàn thể các thánh, biết sống tinh thần của Mẹ: luôn khiêm nhường, luôn sẵn sàng thưa “xin vâng” với Chúa, luôn mở lòng cho Thánh Thần hướng dẫn, để chúng con cũng được diễm phúc như Mẹ, mang Chúa Giêsu đến cho nhân loại và góp phần xây dựng Nước Trời ngay trong cuộc sống. Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ tiếp tục đồng hành, nâng đỡ chúng con bằng lời chuyển cầu của Mẹ, để chúng con được vững tin trên con đường thập giá và hi vọng cùng Mẹ được hưởng vinh quang Phục Sinh. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

Lm. Anmai, CSsR

VÂNG LỜI HƠN CỦA LỄ

Trong hành trình đức tin, chúng ta thường được mời gọi dâng lên Thiên Chúa nhiều lễ vật khác nhau để bày tỏ lòng tôn thờ và mến yêu. Thế nhưng, ngay từ Cựu Ước, lời Chúa đã minh định một chân lý tưởng chừng như rất đơn giản mà lại thâm sâu vô cùng: “Vâng lời thì tốt hơn dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn mỡ chiên béo” (1 Sm 15:22). Tác giả Thánh Vịnh cũng hợp xướng một điệp khúc tương tự: “Ta không trách ngươi về lễ toàn thiêu, lễ hiến tế ngươi luôn đặt trước nhan Ta. Nhưng Ta không cần bò của ngươi, chẳng cần chi dê đực trong chuồng” (x. Tv 50:8-9). Chúng ta vẫn tin rằng hiến tế là cách thờ phượng cao quý, nhưng chính Lời Chúa lại cho biết điều thực sự làm đẹp lòng Ngài chính là sự tuân phục. Quả thật, khi chúng ta sẵn sàng đặt thánh ý Chúa lên trên mọi ước muốn cá nhân, đó mới là một hy lễ đích thực, một của lễ vô giá và vượt lên trên mọi hy lễ bên ngoài. Tuân phục vì tin tưởng: chỉ khi ta vững vàng trong đức tin, ta mới có thể vâng theo ý Chúa một cách trọn vẹn và vô điều kiện.

Đức Maria – Mẹ của chúng ta – là một mẫu gương vĩ đại về niềm tin và sự tuân phục ấy. Mẹ đã để cho thánh ý Chúa định đoạt mọi sự nơi cuộc đời Mẹ. Có thể nói, Lễ Truyền Tin mà Giáo Hội cử hành hằng năm chính là minh chứng hùng hồn cho đức vâng lời tuyệt đối của Mẹ Maria. Khi sứ thần Gáp-ri-en xuất hiện, Mẹ đã bối rối vì lời chào “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng”, nhưng Mẹ mau mắn gạt bỏ mọi e ngại và vui lòng thưa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1:38). Khi nói lời “xin vâng” đó, Mẹ không hề biết trước cuộc sống mình sẽ ra sao, sẽ gặp những khó khăn hay đau khổ nào. Nhưng Mẹ đã đặt trọn niềm tín thác vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa. Ngay giây phút “xin vâng” ấy, Ngôi Hai Thiên Chúa bắt đầu công cuộc Nhập Thể, mang lấy xác phàm để khai mở kế hoạch vĩ đại của Chương Trình Cứu Độ. Do đó, việc Mẹ thưa “xin vâng” chẳng những là một thái độ tuân phục, mà còn gắn liền với đức tin: có tin tưởng tuyệt đối mới có thể vâng lời tuyệt đối.

Hiến dâng Mùa Chay với bầu khí trầm lắng, chúng ta nhận ra sắc tím khổ đau đã bao trùm lên tất cả, tựa như những gai nhọn và đinh sắc găm sâu vào tâm tư mỗi người. Thế nhưng ngay trong bối cảnh của Mùa Chay, Lễ Truyền Tin lại lóe lên một niềm vui siêu nhiên. Niềm vui đó bắt nguồn từ Chúa Cha, Đấng yêu thương trao ban Con Một cho nhân loại. Thật vậy, ngày Truyền Tin là khởi điểm cho Đại Hỉ Tín – không chỉ riêng cho Đức Maria, nhưng còn cho toàn thể loài người. Nhờ giây phút truyền tin linh thánh và nhờ tiếng “xin vâng” khiêm nhường của Mẹ, chúng ta có được Đấng Em-ma-nu-en – nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Mỗi khi lần chuỗi Mân Côi, chúng ta suy ngắm Mầu nhiệm thứ nhất Mùa Vui: Sứ thần truyền tin cho Đức Maria. Giáo Hội dạy ta hãy khẩn cầu ơn sống khiêm nhường, vì chỉ trong khiêm nhường sâu xa, ta mới có thể sẵn sàng để Chúa hành động và biến đổi cuộc đời mình.

Sự tuyệt vời của niềm vui còn được “nhân đôi” nhờ bối cảnh thời gian. Khi sứ thần Gáp-ri-en truyền tin cho Đức Maria, trước đó khoảng nửa năm, cũng đã có một biến cố vui mừng tương tự đối với vợ chồng ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét. Tuy già nua tuổi tác, họ được ban cho niềm hy vọng rạng ngời là sẽ sinh hạ Gioan Tẩy Giả. Hai niềm vui liên tiếp như những khởi đầu rực sáng cho thời kỳ Cựu Ước sắp sửa khép lại, để nhường chỗ cho kỷ nguyên Tân Ước bừng nở trong ân sủng. Niềm vui ấy càng tăng lên gấp bội nơi Đức Maria: Nếu chuyện ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét đã là một điều kỳ diệu, thì việc một Trinh Nữ hoàn toàn khiết tịnh lại cưu mang Con Thiên Chúa còn kỳ diệu hơn vô vàn. Đó là một phúc lành lớn đến mức khiến chính Mẹ Maria cũng phải ngạc nhiên, và người chị họ Ê-li-sa-bét phải reo lên: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1:43). Niềm vui này bùng vỡ để diễn tả một chân lý nền tảng: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1:37).

Chúng ta nhìn vào Kinh Thánh và thấy hai thánh ca nổi tiếng để diễn tả hai niềm vui này: Với Gioan Tẩy Giả, ông Da-ca-ri-a cất cao bài “Chúc Tụng” (Benedictus) (x. Lc 1:68-79); còn với việc Mẹ Maria cưu mang Đấng Cứu Thế, chính Mẹ đã cất lên bài “Ngợi Khen” (Magnificat) (x. Lc 1:46-55). Hai bài thánh ca, hai hoàn cảnh, hai niềm vui, nhưng chung một nguồn cội: Chúa đã đoái thương đến phận hèn con người. Dẫu cho trí óc phàm nhân không thể hiểu hết, nhưng khi chiêm ngắm những biến cố ấy, ta nhận ra một Thiên Chúa quyền năng, giàu lòng thương xót, luôn thành tín với những gì Ngài đã hứa.

Nhắc đến Lễ Truyền Tin, chúng ta không thể quên một sấm ngôn đã được Ngôn sứ I-sai-a tiên báo từ ngàn xưa. Qua câu chuyện vua A-khát (x. Is 7:10-14), Thiên Chúa hứa ban “một dấu” vĩ đại cho nhà Đa-vít và cho toàn dân. A-khát không dám xin, không dám đòi hỏi, vì ông kính sợ Thiên Chúa và không muốn thử thách Ngài. Ngôn sứ I-sai-a liền loan báo: “Chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en.” Vậy thì, Lễ Truyền Tin mà chúng ta mừng kính hôm nay đã ứng nghiệm trọn vẹn lời hứa ấy. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã nhập thể làm người để ở cùng chúng ta, để nên thân cận với kiếp phàm nhân, để chấp nhận khổ đau và cái chết hầu cứu chuộc nhân loại. Người là dấu chỉ tuyệt đối của lòng thương xót và quyền năng mà Thiên Chúa đã từng hứa ban.

Chúng ta cũng có lúc giống như vua A-khát, ngại ngùng không dám đến gần Chúa hay “xin dấu lạ” vì sợ bị xem là thử thách Ngài. Tuy nhiên, dường như con người lại dễ bị lôi kéo bởi những điều lạ thường theo kiểu tò mò hiếu kỳ. Thấy ở đâu có dấu lạ, ta chạy đi xem, bàn tán, thậm chí thêu dệt thêm các “gia vị” cho câu chuyện thêm ly kỳ. Có người phao tin “tôi thấy Chúa, thấy Đức Mẹ”, muốn làm cho mình trở nên nổi bật như “thị nhân” đặc biệt nào đó. Trái lại, trong thực tế, có vô vàn dấu chỉ hiển nhiên giữa cuộc sống mà chúng ta thường làm ngơ hoặc bỏ qua. Hơi thở chúng ta hít vào mỗi giây, ánh sáng trời ban giúp ta thấy rõ vạn vật, nhất là Phép Thánh Thể tái diễn cách sống động hằng ngày nơi bàn thờ, tất cả đều là những “dấu lạ” liên lỉ. Thế nhưng đôi khi ta coi đó là điều đương nhiên, chẳng mấy bận tâm. Bổn phận của người Kitô hữu là ghi khắc và ý thức sâu xa hơn: Chúa vẫn hiện diện thực sự, vẫn ở cùng chúng ta qua những sự kiện giản dị nhất – đặc biệt nơi Thánh Lễ. Tại sao ta lại bỏ qua những “dấu lạ” sống động như thế, chỉ để mải chạy đi tìm kiếm những cảm giác giật gân, hoặc mơ tưởng tới những chuyện khó hiểu đâu đó?

Đức vâng lời, như Thánh Kinh xác nhận, không chỉ là một đức tính nhân bản thông thường, mà còn bắt nguồn từ sự khiêm nhường đích thực. Trong đời tu, lời khấn tuân phục được nêu lên trước cả ba lời khấn chính là khó nghèo – khiết tịnh – vâng phục. Thực ra, trong một số dòng tu, lời khấn vâng phục luôn đi đầu, vì họ xác tín rằng chỉ khi có sự vâng phục chân thành, dựa trên khiêm hạ, người tu sĩ mới có khả năng sống khó nghèo và khiết tịnh đúng nghĩa. Hình thức bên ngoài của những hy lễ, của nến hương, của bao lễ nghi tưng bừng, xét cho cùng đều vô nghĩa nếu ta không có tâm tình tuân phục bên trong. Tác giả Thánh Vịnh đã nói: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi, con liền thưa: ‘Này con xin đến!’. Trong sách có lời chép về con rằng: con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con” (Tv 40:7-9). Lời Thánh Vịnh này khắc họa chính xác thái độ của một tâm hồn muốn làm đẹp lòng Chúa: sẵn sàng lắng nghe và mau mắn thưa “Này con xin đến!”

Ta thấy điều đó nơi Đức Mẹ, Đấng mà Kinh Thánh nhiều lần mô tả là “luôn ghi nhớ mọi sự và suy đi nghĩ lại trong lòng” (x. Lc 2:19). Im lặng, khiêm nhường, vâng phục, Mẹ hiếm khi thốt ra lời nào, nhưng những việc làm của Mẹ vang vọng mạnh mẽ hơn mọi ngôn từ. Từ ngày Mẹ thưa “xin vâng” với sứ thần, Mẹ dấn bước vào một hành trình mới, đầy thách đố và cũng chan chứa hạnh phúc. Và cả cuộc đời Mẹ tiếp tục chứng tỏ rằng Mẹ luôn để ý Chúa hướng dẫn, tuân phục cách trọn vẹn, dẫu có lúc chẳng thể hiểu hết con đường Chúa muốn.

Một khi đã có niềm tin và được hun đúc bằng đức vâng phục, chúng ta lại càng xác tín thêm về sứ mạng của mình. Tác giả Thánh Vịnh mạnh dạn bộc bạch: “Đức công chính của Ngài, con loan truyền giữa lòng đại hội; lạy Chúa, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh. Đức công chính của Ngài, con chẳng giữ riêng lòng mình biết; nhưng con đã nói lên đức trung tín và ơn cứu độ của Ngài, chẳng giấu giếm chi cùng đại hội rằng Ngài thành tín và yêu thương” (Tv 40:10-11). Mỗi Kitô hữu cũng được mời gọi hành động như thế, tức là đem Tin Mừng vào đời, công bố lòng thương xót và sự trung tín của Chúa cho thế giới. Đó không chỉ là trách nhiệm của linh mục, tu sĩ, hay một số người được ủy thác, mà là ơn gọi chung của tất cả những ai tin vào Đức Kitô. Khi loan báo Tin Mừng, ta đang cộng tác với Chúa, làm cho công cuộc cứu độ ngày càng lan rộng, và giúp anh chị em xung quanh ta nhận biết ân sủng cứu độ của Ngài.

Thư gửi tín hữu Do Thái cũng nhấn mạnh giá trị cao cả của đức tuân phục. Thánh Phaolô dạy: “Máu các con bò, con dê không thể nào xóa được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: ‘Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài’” (Dt 10:4-7). Khi chính Chúa Giêsu “đến để thi hành ý Chúa Cha”, Người đã cho thấy sự vâng phục trọn hảo. Người không những dâng lời, dâng lễ vật, mà còn dâng chính thân mình làm hy lễ độc nhất vô nhị, một lần là đủ, để cứu độ toàn thể nhân loại. Có lẽ nhờ vậy, khi chúng ta nhìn lên Thánh Giá, chúng ta thấy đó không chỉ là biểu tượng của sự đau khổ, mà còn là biểu tượng của một tình yêu tột cùng, của một sự vâng phục thánh ý Chúa Cha đến hết mức.

Nếu cậu bé Sa-mu-en khi xưa đã mau mắn thưa: “Xin Ngài cứ làm điều Ngài cho là tốt” (1 Sm 3:18), thì ước gì chúng ta hôm nay cũng có thể ngày ngày dâng lời cầu nguyện tương tự, xin Chúa cứ hoàn thành ý Ngài trên cuộc đời mình. Thoạt nghe có vẻ dễ dàng, nhưng khi thực sự dấn thân, chúng ta mới nhận ra rằng hành vi vâng phục này đòi hỏi một sự can đảm lớn lao. Bao đam mê, bao nhu cầu cá nhân, bao tham vọng trần thế có thể níu kéo ta, nhưng vẫn không mạnh hơn ơn Chúa. Một khi ta biết phó thác, Chúa sẽ ban ơn để chúng ta từng bước kiên trì và trung thành.

Tuân phục dường như được Thánh Phaolô nhắc đi nhắc lại: “Trước hết, Đức Kitô nói: ‘Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích’, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: ‘Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài’. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hóa nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10:8-10). Đọc những lời này, ta mới thấy tinh thần vâng phục chói sáng đến mức nào nơi Đức Giêsu, và cũng đồng thời nơi Mẹ Maria. Đức Kitô đã chấp nhận uống “chén đắng” để ý Cha được nên trọn. Còn Mẹ Maria từ khởi đầu đã khiêm nhường đón nhận sứ mạng cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế.

Trình thuật Tin Mừng theo Thánh Luca (1:26-38) là một bản tường thuật tuyệt diệu về sự kiện truyền tin. Sứ thần Gáp-ri-en được Thiên Chúa sai đến với Trinh Nữ Maria tại Na-da-rét, khi bà Ê-li-sa-bét đang mang thai được sáu tháng. Ngay lời chào ban đầu: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”, Đức Maria đã bối rối. Sứ thần trấn an, và loan báo Mẹ sẽ thụ thai hạ sinh Con Đấng Tối Cao, Đấng sẽ trị vì đến muôn đời. Trong giới hạn nhân loại, Mẹ ngỡ ngàng: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?”. Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Chị, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Chị… Kìa Cô Ê-li-sa-bét, người họ hàng của Chị, tuy già rồi mà đang cưu mang một con trai… Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” Và rồi, lời thưa đáp bất hủ của Đức Maria bật ra tức khắc: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Ngay khoảnh khắc ấy, Sứ thần Gáp-ri-en hoàn tất sứ mạng và từ giã ra đi. Mẹ Maria bắt đầu dấn bước trong cuộc phiêu lưu thánh đức, mang Đấng Cứu Thế vào lòng nhân loại. Có thể nói, Mẹ trở thành Nhà Tạm đầu tiên, vì Mẹ đang “mang” chính Thiên Chúa Ngôi Hai trong cung lòng.

Thật hạnh phúc cho chúng ta, vì khi rước Thánh Thể vào lòng, chính chúng ta cũng được diễm phúc trở thành “nhà tạm sống” của Chúa Giêsu. Thánh Phaolô quả quyết: “Chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa hằng sống” (2 Cr 6:16). Điều đó vừa là ân ban cao quý, vừa là lời mời gọi chúng ta canh tân đổi mới mỗi ngày, ngõ hầu xứng đáng hơn khi mang Chúa trong tâm hồn. Nếu biết chiêm ngắm gương Mẹ Maria, chắc chắn chúng ta sẽ học được thái độ chừng mực, dịu hiền, khiêm nhu, và nhất là sự vâng lời thẳm sâu trước mọi biến cố của cuộc đời.

Vì thế, trong ngày Lễ Truyền Tin, Giáo Hội không chỉ kỷ niệm một biến cố lịch sử, mà còn nhắc nhở ta thực hành điều Mẹ Maria đã sống. Tuân phục không phải là mù quáng, mà là tin tưởng phó thác. Mẹ Maria tuyệt đối tin tưởng, nên cũng tuyệt đối tuân phục. Mẹ không yêu cầu sứ thần cho thêm bằng chứng, Mẹ không tỏ ra hoài nghi, Mẹ chỉ nhẹ nhàng bày tỏ thắc mắc để hiểu rõ hơn ý Chúa, và rồi mau chóng tự hiến mình cho kế hoạch của Ngài. Nếu Mẹ đã dạy ta bằng tấm gương, thì Chúa Giêsu, Con Mẹ, còn dạy ta rõ hơn bằng chính cuộc sống và cái chết. Ngài đã tuân phục Chúa Cha đến tột cùng, dù phải nếm muôn vàn đắng cay khổ nhục. Nhờ sự tuân phục ấy, Ngài khởi đầu một tương lai mới cho nhân loại.

Hôm nay, giữa Mùa Chay, ta hướng về Lễ Truyền Tin với tất cả tâm tình tạ ơn. Chúng ta tạ ơn vì Thiên Chúa đã ban Con Một cho trần gian, tạ ơn vì Mẹ Maria đã quảng đại trao hiến chính mình để Lời Chúa được thành tựu. Chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng, để mỗi người biết học đòi bắt chước Mẹ: luôn giữ lòng khiêm nhường, mở rộng tâm hồn đón nghe Lời Chúa, và can đảm thưa “xin vâng” trước mọi hoàn cảnh. Đôi khi, “xin vâng” nghĩa là chấp nhận điều trái ý mình; đôi khi, đó là buông bỏ một mối bận tâm, một nỗi sợ hãi, để Chúa tự do thực hiện chương trình của Ngài. Thế nhưng, khi ta để cho Chúa làm chủ đời mình, ta mới cảm nếm được niềm hạnh phúc và bình an đích thực. Bởi lẽ, Thiên Chúa luôn muốn ban cho ta điều tốt đẹp nhất, tốt hơn cả những gì ta có thể hình dung.

Ước gì mầu nhiệm tuyệt vời của ngày Truyền Tin thắp sáng đức tin của chúng ta, để ta nhận ra Chúa không ở xa vời, nhưng vẫn hiện diện thật gần gũi, vẫn hằng yêu thương và hoạt động trong cuộc sống của mỗi người. Nếu chúng ta đã từng coi thường các “dấu lạ” thường nhật – như không khí, ánh sáng, sức khỏe, hay mỗi Thánh Lễ – thì nay, hãy biết trân quý và nhìn chúng bằng đôi mắt tin yêu. Thay vì hoang phí thời gian tìm kiếm những cảm xúc thoáng qua, hãy dành thời gian lắng nghe Lời Chúa, chuyên cần lãnh nhận các Bí tích, thực hành bác ái, và sống yêu thương như Chúa đã truyền. Mỗi người chúng ta, trong ơn gọi và sứ vụ riêng, hãy kiên trì noi gương Mẹ Maria, để đức vâng lời và khiêm nhường trở thành nền tảng cho toàn bộ cuộc sống.

Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta ơn can đảm để sẵn sàng thưa lên: “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy làm cho con điều Ngài muốn”. Để rồi, từng ngày, chúng ta nên giống Chúa Giêsu hơn – một Giêsu luôn tuân phục Chúa Cha – và trở nên những chứng nhân sống động của Tin Mừng. Trong bầu khí linh thiêng của Mùa Chay và niềm hân hoan của Lễ Truyền Tin, xin Thiên Chúa dẫn dắt chúng ta đến gần hơn với Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng hiện diện cách sống động trên bàn thờ, để ta có thể đón nhận Người với tất cả lòng tin, lòng mến, và lòng tuân phục.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, chúng con tạ ơn Ngài vì đã thương ban Con Một cho nhân loại. Chúng con tạ ơn Ngài vì mẫu gương tuyệt diệu của Đức Maria, người đã “xin vâng” mà không một chút do dự. Xin Chúa giúp chúng con biết khiêm nhường lắng nghe Lời Ngài, để niềm tin của chúng con lớn lên và sự vâng phục của chúng con trở nên chân thành hơn. Lạy Thánh Mẫu Thiên Chúa, xin Mẹ tiếp tục hướng dẫn và nâng đỡ chúng con trên đường lữ hành đức tin, để chúng con luôn sẵn sàng thưa “xin vâng” như Mẹ, cho dù cuộc sống có nhiều gian nan và mịt mờ phía trước. Chúng con cầu xin nhờ Danh Thánh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, Đấng đã nhập thể và cứu độ nhân loại. Amen.

Lm. Anmai, CSsR

MẦU NHIỆM TRUYỀN TIN VÀ SỰ KHIÊM NHƯỜNG CỦA ĐỨC MARIA

Khi chúng ta cùng nhau suy niệm về ngắm thứ nhất Mùa Vui trong Kinh Mân Côi – biến cố Thiên Thần Gabriel truyền tin cho Đức Maria – Giáo hội mời gọi mỗi người chiêm ngắm thái độ của Mẹ trong tư thế “người nữ tỳ của Thiên Chúa” và nài xin ơn “ở khiêm nhường” như Mẹ. Nhưng sự khiêm nhường ấy không chỉ đơn thuần là một nét nhân đức hiền hòa bề ngoài, càng không phải sự nhún nhường nặng tính xã giao. Thay vào đó, khiêm nhường nơi Đức Maria là một mầu nhiệm nội tâm sâu xa, đã được Kinh Thánh diễn bày, và Hội Thánh suốt bao đời không ngừng tôn vinh để nêu lên cho chúng ta một mẫu gương sống động. Vậy cụ thể, đức khiêm nhường của Đức Maria đã được Kinh Thánh cho thấy như thế nào? Và đâu là ý nghĩa của thái độ “Xin Vâng” – Fiat – mà Mẹ đã thưa lên trước lời cầu ngỏ của sứ thần? Từ đó, chúng ta có thể học biết điều gì để áp dụng vào đời sống ơn gọi Kitô hữu? Chắc chắn, đây là một mầu nhiệm khiến chúng ta phải dừng lại, suy gẫm thật lâu, để hiểu và để sống, hầu nhận ra con đường dẫn đến sự hoàn thiện có thể đến từ một hành vi tưởng chừng rất bé nhỏ, đơn sơ: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”.

Trước hết, trình thuật trong Tin Mừng Luca cho chúng ta một khung cảnh rất gần gũi và mộc mạc. Mẹ Maria – theo cái nhìn của con người thời bấy giờ – chỉ là một thiếu nữ miền quê, cư ngụ tại làng Nazareth hẻo lánh, chẳng có bề dày học thức, chẳng thuộc dòng dõi thế giá theo quan điểm phàm trần. Thế nhưng, Thiên Chúa đã chọn Mẹ từ đời đời. Lời ngôn sứ Isaia xưa kia loan báo: “Này đây, một trinh nữ sẽ thụ thai…” (x. Is 7,14) trở nên sống động nơi Mẹ. Chúa không tìm đến một cung điện, cũng không chọn người thuộc hàng vương tôn quý tộc, nhưng lại quyết định ban ân sủng cho Đức Maria – người trinh nữ nhỏ bé. Thiên Chúa không hành động theo cách tính toán của phàm nhân. Chính sự “khác thường” này làm nên những bất ngờ vĩ đại của Kinh Thánh, đồng thời cũng minh chứng rằng ơn gọi luôn xuất phát từ ý định siêu việt của Chúa. Kế hoạch tuyển chọn Đức Maria đã có trong chương trình yêu thương của Chúa từ muôn đời, bởi vì “không có gì mà Thiên Chúa không làm được” (Lc 1,37). Đứng trước biến cố ấy, ắt hẳn chúng ta cũng nên dừng lại mà chiêm ngắm: vì sao Thiên Chúa lại chọn Mẹ? Phải chăng vì Mẹ sở đắc cho mình trọn vẹn những nhân đức cao quý nhất, hay vì Mẹ thuộc về một gia tộc quyền quý hơn người? Hoàn toàn không. “Chúa đã chọn Mẹ chỉ vì Chúa muốn như vậy”. Đây là mầu nhiệm khôn dò, và ơn gọi – xét cho cùng – vẫn là ân ban nhưng không của Thiên Chúa, một ân ban không hề lệ thuộc vào công trạng con người.

Khi đã được Chúa chọn, Đức Maria còn được ban cho một tâm hồn và cung lòng trinh trong, không lây nhiễm tội nguyên tổ, để xứng đáng trở nên “Mẹ Thiên Chúa”. Đó là đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội mà Hội Thánh tôn kính Mẹ. Mẹ là thụ tạo duy nhất giữa nhân loại được gìn giữ tinh tuyền, được chuẩn bị thành một đền thờ tuyệt mỹ để Ngôi Hai Thiên Chúa cư ngụ. Thế nhưng, tất cả hồng ân lớn lao đó không đồng nghĩa với việc Mẹ đánh mất tính nhân loại, hay không còn sự tự do lựa chọn. Giáo hội dạy rằng Mẹ hoàn toàn tự do đáp lại lời mời gọi của Chúa: “Này tôi đây, tôi là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ thực hiện nơi tôi…” (x. Lc 1,38). Chúng ta cần dừng lại thật lâu ở chi tiết này, vì chính nơi đây, đỉnh cao của đức khiêm nhường được mặc khải.

Nhìn vào biến cố truyền tin, không ít lần chúng ta lầm tưởng rằng, vì Chúa đã an bài mọi sự nên Đức Maria “có cũng được, không có cũng chẳng sao”. Thế nhưng Kinh Thánh và Thánh Truyền khẳng định Mẹ đã tự do thưa “xin vâng”. Nếu Mẹ từ chối, chương trình cứu độ của Chúa không phải bị vô hiệu, nhưng tự do của Mẹ vẫn đáng được Thiên Chúa tôn trọng một cách trọn vẹn. Điều này gợi nhớ đến lời Thánh Augustinô: “Chúa dựng nên con không cần có con, nhưng để cứu rỗi con, Chúa cần có con cộng tác”. Trong chương trình cứu độ cao cả, Chúa muốn có sự gắn bó, ưng thuận của con người, và Mẹ Maria đã đáp trả bằng tất cả tâm hồn, trí khôn và ý chí tự do của mình. Vì thế, “Xin Vâng” của Mẹ không chỉ là một tiếng nói thuận theo ý Chúa, mà còn là một lựa chọn có ý thức, có cân nhắc. Một lựa chọn mà ngay khoảnh khắc cất lên, Mẹ đã trở thành cánh cửa mở ra con đường ân sủng cho toàn thể nhân loại. Chính vì thế, Hội Thánh vẫn chiêm ngắm biến cố Truyền Tin như một mầu nhiệm khai mở kỷ nguyên cứu độ; kể từ giây phút ấy, “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta” (Ga 1,14).

Đặt vấn đề về đức khiêm nhường của Đức Maria, ta không thể không gợi nhớ lại lời Mẹ khẳng định trong kinh Magnificat: “Chúa đoái thương phận hèn tớ nữ…” (Lc 1,48). Mẹ ý thức cách thẳm sâu bản thân chỉ là một thụ tạo bé nhỏ, và rằng tất cả vinh quang, ân sủng, phúc lộc Mẹ có đều đến từ Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Việc Mẹ “thấy mình hèn mọn” nơi lời kinh Magnificat xuất phát từ sự thật rõ ràng: Mẹ được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế không phải do công trạng cá nhân, nhưng do lòng nhân hậu tuyệt đối của Chúa. Cũng vì biết mình nhỏ bé, Mẹ để cho Chúa hành động. Mẹ giống như tấm vải trắng tinh khôi mà Chúa tự do vẽ lên đó bức họa tuyệt mỹ, giống như mảnh đất sẵn sàng cho tay Người thợ gốm nhào nặn nên hình nên dạng. Đó là “căn rễ của mọi nhân đức” như các bậc thánh hiền đã nói. Nếu không có sự khiêm nhường, mọi nhân đức khác đều có nguy cơ trở thành kiêu hãnh trá hình. Nhưng với khiêm nhường, Mẹ để cho Chúa tiếp tục và hoàn tất công trình thánh thiện trên cuộc đời mình. Nhờ đó, Mẹ trở thành “nữ tỳ”, trở thành “tôi tớ” Thiên Chúa một cách trọn hảo.

Cũng trong thái độ khiêm nhường đó, Mẹ Maria đặt trọn vẹn niềm tin nơi quyền năng Thiên Chúa. Bà Elizabeth đã chúc tụng Mẹ: “Phúc cho Bà, vì Bà đã tin…” (Lc 1,45). Quả thật, niềm tin của Mẹ là niềm tin “không tỳ ố”. Ta còn thấy Mẹ hỏi lại sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” (Lc 1,34). Câu hỏi này không mang hàm ý thiếu tin, mà bộc lộ sự đơn sơ, mong muốn hiểu thêm kế hoạch của Chúa. Mẹ không phải siêu nhân, nhưng Mẹ vẫn có những thắc mắc chính đáng của một thụ tạo. Và ngay khi sứ thần giải thích: “Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà…”, Đức Maria sẵn sàng chấp nhận chương trình đó, một chương trình hoàn toàn vượt ra ngoài tầm suy nghĩ của con người. Đức Maria, vì thế, chẳng những là “Mẹ Đấng Cứu Thế” mà còn là “Thầy dạy đức tin” cho cả cộng đoàn Dân Chúa. Như Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII từng nhấn mạnh trong Tông thư Mater et Magistra: Giáo hội là Mẹ và là Thầy. Tước hiệu ấy cũng có thể áp dụng cách huyền diệu cho Đức Maria. Bởi vì Mẹ vừa là người cưu mang Đấng Cứu Thế, vừa nêu gương khiêm nhường, tín thác cho nhân loại. Hành trình đức tin của Mẹ khởi đầu tại biến cố Truyền Tin và đạt đỉnh cao khi Mẹ đứng dưới chân Thập Giá, kết hợp trọn vẹn với Hy tế của Chúa Giêsu. Nếu Mẹ không khiêm nhường và tin tưởng, hẳn Mẹ khó có thể đi trọn con đường thập giá đầy gian nan và đau thương ấy. Thế nên Mẹ trở thành “Thầy dạy đức tin” của chúng ta không phải bằng những bài huấn dụ dài dòng, nhưng bằng chính sự hiện diện âm thầm của Mẹ bên Chúa, từ lúc Mẹ “Xin Vâng” đến giây phút của Cuộc Khổ Nạn, rồi cả hành trình loan báo Tin Mừng sau Phục Sinh.

Bước sang một khía cạnh khác, khi chúng ta nhìn vào đời sống ơn gọi của bản thân, có đôi lúc chúng ta cũng cần bắt chước cách Mẹ thực hiện mầu nhiệm “Xin Vâng” trong đời thường. Mẹ Maria để cho Chúa định đoạt mọi đường lối. Chúa muốn Mẹ trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế, Mẹ liền để cho ý Chúa thành hình và sẵn sàng ôm ấp Ngôi Lời trong cung lòng trinh khiết. Phần của chúng ta hôm nay, Chúa cũng muốn chúng ta là ai, chứ không chỉ muốn chúng ta “làm gì”. Trong thế giới nhiều biến động, khi đời sống xã hội đặt nặng tính thực dụng, đôi khi ta bị cám dỗ lao theo những kế hoạch, dự án, khởi nghiệp… để khẳng định “mình là ai”. Và dần dần, chúng ta quên mất căn tính đích thực là “con cái Thiên Chúa”, quên mất cái “tôi” sâu thẳm được Chúa mời gọi. Lắm lúc ta bị tiếng ồn ào của xã hội át mất tiếng Chúa, hoặc thậm chí không còn nghe được tiếng Chúa mời gọi. Nếu nhìn lên Mẹ Maria, chúng ta sẽ học được bài học: điều tiên quyết là phải “lắng nghe” và “để cho Chúa làm” thay vì nôn nóng hành động chỉ theo ý mình.

Có lẽ, một khi ta thật sự ý thức mình là thụ tạo bé nhỏ trước mặt Chúa, nhận ra tình yêu và sự quan phòng của Người, thì ta sẽ “thưa xin vâng” một cách bình an hơn. Trong mọi ngóc ngách của cuộc sống, từ lựa chọn ơn gọi tu trì, lập gia đình đến việc dấn thân trong sứ vụ giáo xứ, sứ vụ xã hội, ta cần nhớ luôn gắn kết với Chúa qua lời cầu nguyện và tâm tình phó thác. Nếu biết noi gương Mẹ – một tạo vật đã khiêm nhường, tin tưởng, vâng phục Chúa hoàn toàn, chúng ta cũng sẽ dần nhận ra: “Ơn Ta đủ cho con” (2Cr 12,9). Không phải lúc nào con người cũng hiểu hết cách Chúa dẫn dắt, nhưng chắc chắn, “Chúa có thể rút từ sự dữ ra điều tốt lành hơn”, và chỉ khiêm tốn đón nhận ý Chúa, chúng ta mới có thể nghiệm thấy những hoa trái kỳ diệu.

Trong khi chiêm ngắm sự khiêm nhường của Đức Maria, chúng ta cũng đừng quên rằng Đức Giêsu – Con của Mẹ – là suối nguồn và lẽ sống của mọi đức hạnh. Thư Do Thái đã nói về thái độ của Chúa Giêsu khi vào trần gian: “Này con đây, con đến để thi hành thánh ý Cha” (Dt 10,7). Thánh Phaolô quả quyết: Chúa Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa nhưng đã tự hủy, mặc lấy thân phận tôi đòi, khiêm nhường vâng lời cho đến chết và chết trên Thập Giá (x. Pl 2,6-8). Có thể nói, Đức Maria đã “sao chép” lại chính sự khiêm nhường của Người Con mà Mẹ cưu mang. Cuộc sống dương thế của Mẹ là một chuỗi ngày “xin vâng” với Chúa, từ biến cố truyền tin cho đến các sự kiện Vượt Qua của Con Mẹ. Từ mẫu gương đó, giờ đây Mẹ được tôn vinh trên trời, trở nên Nữ Vương các Thiên Thần và các Thánh, đồng thời tiếp tục cầu bầu cho chúng ta trước ngai Chúa. Vì thế, mỗi khi lần hạt Mân Côi, hoặc khi suy niệm riêng về ngắm thứ nhất Mùa Vui, ta hãy nhớ: lời “xin vâng” của Mẹ đã khai mở một kỷ nguyên ân sủng. Nhờ Mẹ, chính chúng ta cũng được mời gọi để thưa “xin vâng” với Chúa trong những hoàn cảnh cụ thể của đời mình.

Nhưng đâu là động lực và sức mạnh để ta sống khiêm nhường như Mẹ? Chắc chắn, nền tảng lớn lao nhất vẫn là ơn Chúa. Chúng ta không thể ép mình “khiêm nhường” theo kiểu gồng gánh, mà phải để Chúa biến đổi dần dần qua từng ngày. Mẹ Maria đã lặng lẽ gẫm suy Lời Chúa trong lòng (x. Lc 2,19), sẵn sàng đón nhận mọi thử thách; Mẹ ghi khắc và để cho Lời Chúa hướng dẫn. Cũng vậy, chúng ta cần đọc, suy niệm và sống Tin Mừng, để chính Lời Hằng Sống thấm sâu, tái tạo suy nghĩ, tình cảm, lương tâm, hướng tới sự “tự hư vô hóa” bản thân trước kế hoạch Chúa. Đó là lý do vì sao Kinh Mân Côi – với các Mầu nhiệm Vui, Sáng, Thương, Mừng – là loại kinh đơn sơ mà hết sức súc tích, luôn giúp chúng ta chiêm ngắm công trình cứu độ nơi Đức Giêsu, dưới ánh sáng mẫu gương của Mẹ.

Mặt khác, khi sống đức khiêm nhường, ta không đánh mất chính mình, cũng không để mặc cho cuộc đời “muốn trôi về đâu thì trôi”. Trái lại, người khiêm nhường luôn kết hợp mạnh mẽ với sức sống nội tâm và trở nên chính mình hơn bao giờ hết, vì họ ý thức rõ: tất cả những gì mình có – thể chất, tinh thần, tài năng, công việc, các cơ hội – đều là quà tặng của Thiên Chúa. Từ đó, thay vì rơi vào kiêu căng, họ phó thác những hoa trái lao công cho Chúa, để Chúa thánh hóa và gia tăng. Người khiêm nhường còn biết mở rộng lòng đón nhận đóng góp của anh chị em xung quanh, như Đức Maria sẵn sàng đến thăm viếng và ở lại giúp Bà Elizabeth; không phải Mẹ đến để “khoe” về sứ mạng cao trọng, nhưng vì lòng yêu thương, vì ước muốn chia sẻ niềm vui và phục vụ người chị họ đang mang thai trong tuổi già. Đó cũng là một cách diễn bày khác của khiêm nhường: hạ mình để phục vụ, quên đi chính mình để yêu thương, và nhận ra công việc của Chúa nơi những cuộc gặp gỡ đơn sơ hằng ngày.

Sau cùng, khi sắp kết thúc công cuộc chiêm ngắm mầu nhiệm Truyền Tin, chúng ta hãy hướng lòng về hình ảnh một vị Nữ Tỳ luôn sẵn sàng trả lời “xin vâng” không ngần ngại. Vậy xin được gợi lên lời nhắc nhở này cho tất cả chúng ta: trước mọi biến cố lớn nhỏ trong cuộc đời, hãy học từ Mẹ thái độ “tôi chỉ là tôi tớ của Thiên Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi những gì Chúa muốn”. Con đường nhân đức, con đường trưởng thành ơn gọi, không tìm được ở nơi những tham vọng chinh phục hay biểu dương bản thân, nhưng ở chỗ cởi mở trọn vẹn để cho Chúa tác động. Chúng ta vốn chỉ là khách lữ hành, thế gian này như quán trọ, bao cạm bẫy giăng mắc có thể khiến ta chao đảo. Một tâm hồn khiêm nhường, luôn suy ngắm Lời Chúa trong im lặng và trông cậy, sẽ tìm được ánh sáng để cất bước. Đó chính là hạnh phúc của người biết “trông cậy Chúa” và để Chúa hướng dẫn mình, hệt như Mẹ Maria.

Nguyện xin Mẹ dạy chúng ta nghệ thuật sống đức khiêm nhường mà Mẹ đã thể hiện một cách tuyệt vời. Xin Mẹ đưa dẫn chúng ta về với Chúa Giêsu, để dù trong phận hèn mọn thế nào đi nữa, chúng ta vẫn nhìn thấy ơn gọi cao quý của mình – ơn gọi làm con cái Chúa và thông dự vào sứ mạng của Đức Kitô. Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ, ước gì tất cả chúng ta mỗi ngày một tiến sâu hơn trong tình yêu Chúa, đón nhận Chúa, để cũng có thể cùng với Mẹ cất lên lời: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1,46-47). Và rồi, cũng như Mẹ, chúng ta được Chúa mời gọi trở nên khí cụ của lòng thương xót, để đem chính Chúa đến với thế giới hôm nay, nơi còn biết bao tâm hồn khao khát sự hiện diện của Người. Như vậy, mỗi khi chúng ta lần hạt Mân Côi ngắm thứ nhất Mùa Vui, chúng ta không chỉ “đọc” hay “nhớ” lại biến cố Truyền Tin, mà còn “sống” và làm cho mầu nhiệm ấy tái sinh trong chính cuộc đời mình, hầu ơn cứu độ của Chúa được lan tỏa đến tận cùng trái đất. Amen.

Lm. Anmai, CSsR

SỨ ĐIỆP TRUYỀN TIN VÀ LỜI “XIN VÂNG”

Nếu chúng ta để tâm suy niệm, sẽ thấy rằng trong cuộc sống hằng ngày, “sứ điệp” có nhiều dạng thức và nhiều cấp độ. Có những sứ điệp vui tươi, mang tin mừng; có những sứ điệp buồn bã, mang dấu hiệu báo động; cũng có những sứ điệp “bình thường”, chỉ thông báo một tin tức nào đó; và có cả những sứ điệp lớn lao, chất chứa ý nghĩa sâu xa hay một sứ mệnh, một trọng trách nặng nề. Dựa vào tính chất và đối tượng, sứ điệp có thể biến đổi cả một cộng đồng, một dân tộc hay thậm chí định hình vận mệnh của lịch sử.

Biến cố Truyền Tin được Giáo Hội long trọng mừng kính là một trong những sự kiện chứa đựng “Sứ Điệp” vô cùng đặc biệt: Đó không phải là sứ điệp của loài người gửi cho nhau, mà chính là Tin Vui quan trọng bậc nhất, do Thiên Chúa gửi đến cho nhân loại, được trao ban qua trung gian sứ thần Gáprien, trực tiếp ngỏ lời với một cô thôn nữ miền Nadarét mang tên Maria. Sứ điệp này là khởi đầu cho công trình cứu độ: “Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14). Thế nhưng, ẩn sâu bên trong sứ điệp lại có cả niềm vui lẫn trách nhiệm, có hạnh phúc chan chứa nhưng đồng thời cũng bao hàm đòi hỏi “xin vâng” – trọn vẹn dâng hiến bản thân, dâng hiến tương lai.

Nhìn về Cựu Ước, trình thuật Is 7:10-14 tuy ngắn gọn nhưng mang sức nặng của một sứ điệp vĩ đại. Ngày xưa, vua A-khát – đứng trước biến cố hệ trọng – được Thiên Chúa trao đặc ân: “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh”. Thế nhưng, vì sợ hãi hoặc vì một chút do dự nào đó, vua A-khát đã trả lời: “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa”. Lối nói có vẻ “khiêm tốn”, nhưng thực ra lại ẩn chứa thái độ thiếu tin tưởng mạnh mẽ vào Thiên Chúa. Lời Kinh Thánh này phần nào cảnh báo chúng ta chớ “đùa với lửa”, vì đôi khi ta thử thách Thiên Chúa mà chính ta không hề nhận ra, hoặc cố tình lãng tránh với những biện hộ gượng gạo.

Ngôn sứ Isaia tiếp tục công bố một sứ điệp cốt lõi cho dân Chúa thời ấy, cũng như cho toàn nhân loại: “Này đây, người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanu-en” (Is 7:14). Lời tiên báo này được ứng nghiệm nơi Đức Maria, một thiếu nữ vùng Nadarét, gốc gác đơn sơ, con của ông Gioakim và bà Anna, nhưng được Thiên Chúa tuyển chọn cách vô cùng đặc biệt để trở thành Thân Mẫu Con Thiên Chúa.

Đức Maria nhận được nền giáo dục đạo hạnh từ gia đình: đức tin kiên vững, lòng kính sợ Chúa, sự hiền hậu, kiên nhẫn và khiêm nhường. Với ai đi sâu vào linh đạo, sẽ thấy rằng “khiêm nhường” chính là nền tảng của mọi nhân đức, và “vâng phục” dựa trên “khiêm nhường” là nét đẹp được Thiên Chúa ưa thích. Nhiều lần trong Thánh Vịnh, chúng ta thấy Thiên Chúa không màng những tế phẩm bên ngoài: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi” (Tv 40:7). Điều Chúa mong chờ chính là tấm lòng chân thành, biết thưa với Ngài: “Này con xin đến! Con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng” (Tv 40:8-9). Đời sống của Đức Maria minh chứng cho thái độ đó: Mẹ không ngừng “xin vâng” trong mọi hoàn cảnh, bằng chứng là Mẹ sẵn sàng đón nhận thánh ý Chúa suốt cuộc đời, dẫu biết bao nhiêu gian nan, thử thách sẽ tới tấp ập đến.

Hai nhân đức “khiêm nhường” và “vâng lời” thuộc loại “nhân đức đối nhân” – chứ không phải “đối thần” như đức tin, đức cậy, đức mến – nhưng lại vô cùng quan trọng và liên kết mật thiết với nhau. Khi nói về “vâng phục” trong Tân Ước, Thư Do Thái cho chúng ta một chứng cứ cụ thể: Chính Chúa Giêsu, khi vào trần gian, đã chấp nhận hiến dâng bản thân theo thánh ý Chúa Cha, để trở nên Chiên Hiến Tế Thánh, một lần là đủ để cứu độ muôn người. Thư Do Thái (10:4-10) cho biết mọi lễ tế cũ, lễ toàn thiêu, lễ xá tội… cũng chỉ là bước dọn đường, chẳng xóa được tội lỗi; chỉ máu Con Chiên Vô Giá mới mang lại ơn cứu độ. Như vậy, việc Chúa Giêsu “xin vâng” ý Chúa Cha và giáng trần là một sự tuân phục tuyệt hảo. Cũng thế, về phía phàm nhân, mỗi khi biết dâng cho Chúa tâm tình hiến dâng tự nguyện, nghĩa là chấp nhận thanh luyện và nỗ lực sống theo ý Chúa, thì lễ dâng của ta – dù nhỏ bé – vẫn có ý nghĩa vô cùng, vì được kết hợp với hy lễ duy nhất của Chúa Kitô.

Khi nhìn vào khung cảnh Truyền Tin được Thánh sử Luca thuật lại (Lc 1:26-38), ta cảm nhận rõ đây là một sự kiện “siêu nhiên” nhưng lại diễn ra rất “tự nhiên”. “Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria” (Lc 1:26-27). Tác giả Luca viết rất súc tích, chính xác. Về mặt lịch sử, Maria đã đính hôn với Giuse, nhưng việc chính thức “về chung nhà” thì chưa diễn ra.

Cảnh truyền tin ấy, nếu tạm hình dung qua “lăng kính nhân loại”, có thể khiến chúng ta ngạc nhiên vô chừng. Sứ thần Gáprien vào nhà, mở đầu bằng lời chào: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Chị” (Lc 1:28). Từ “Đấng đầy ân sủng” khiến Maria bối rối, không hiểu sao Thiên Chúa lại trao tặng mình danh xưng lạ lùng đó. Dường như đọc thấu tâm trí Mẹ, sứ thần liền trấn an: “Xin đừng sợ, vì Chị đẹp lòng Thiên Chúa… Chị sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu…” (x. Lc 1:30-31). Lại càng bất ngờ hơn, vì theo lẽ thông thường, Maria chưa về chung sống với Giuse, làm sao có thể mang thai? Mẹ ngập ngừng hỏi lại: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” (Lc 1:34).

Sự bối rối của Mẹ là điều tất yếu, bởi chưa từng có tiền lệ “một trinh nữ lại có thể thụ thai”. Sứ thần Gáprien, với cung cách hiền hòa, giải thích: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Chị, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Chị…” (Lc 1:35). Thêm vào đó, sứ thần còn dẫn chứng trường hợp của bà Êlisabét, người mà xưa nay vốn bị coi là hiếm hoi, nay đã mang thai ở tuổi già, để Maria thấy rằng “không có gì mà Thiên Chúa không làm được” (Lc 1:37). Tất cả những gì sứ thần nói đều cho thấy Thiên Chúa quyền năng sẽ thực hiện một sự kiện chưa từng có, và việc này đòi hỏi lòng tin, đòi hỏi lời “xin vâng” tự do từ phía Maria.

Bấy giờ, Mẹ Maria thưa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1:38). Câu đáp ấy khiến ta xúc động, vì chớ gì Mẹ có thể giãy nảy, có thể lắc đầu từ chối trách nhiệm quá nặng nề, hoặc chí ít hỏi thêm vài ba câu nữa để rõ ràng. Thế nhưng Mẹ chỉ hỏi một lần cho đủ, rồi can đảm dâng một lời “xin vâng” vô điều kiện. Chính giây phút ấy, truyền thống đức tin của chúng ta xác tín: Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể trong cung lòng Trinh Nữ Maria. Giây phút ấy cũng là lúc vén mở Kế Hoạch Cứu Độ, để rồi sau này Thánh Gioan viết: “Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14).

Đối diện với sứ điệp của Thiên Chúa, Mẹ Maria thật giản dị: ban đầu có băn khoăn, nhưng một khi hiểu rõ (“việc ấy sẽ xảy ra thế nào?”), Mẹ không còn phân vân do dự. Một cô thôn nữ miền quê xa xôi, bước vào trọng trách làm Mẹ Con Thiên Chúa. Sự xáo trộn là điều chắc chắn, nhưng Mẹ đã hoàn toàn để mình chìm trong bàn tay Chúa. Từ “sợ hãi” đến “mau mắn tin tưởng”, hành trình ấy đan quyện trong cuộc đời Đức Maria, để rồi Mẹ trở thành gương mẫu cho mọi thế hệ Kitô hữu.

Sứ điệp Truyền Tin cho chúng ta thấy một “mẫu gương vâng phục”. Ai từng có kinh nghiệm về công tác truyền thông, về việc loan báo một tin nào đó, đều hiểu rằng để sứ điệp được tiếp nhận, cần có sự cộng tác của người đón nhận. Thiên Chúa không “cưỡng bức” Mẹ Maria, nhưng Ngài tôn trọng tự do của Mẹ. Nếu Mẹ từ chối, kế hoạch cứu độ chắc chắn vẫn được Chúa thực hiện cách khác, nhưng hạnh phúc của Mẹ và ơn phúc dành cho nhân loại cũng sẽ diễn tiến khác đi. Lời “Xin Vâng” của Mẹ thực sự trở thành “điểm chốt” mở toang cánh cửa lịch sử, cho Đấng Cứu Tinh bước vào dòng thời gian.

Nhìn lại thực tại nhân sinh, chúng ta cũng nhiều lần “nhận” những sứ điệp từ Thiên Chúa – có khi Ngài dùng những biến cố, có khi qua người thân cận, hoặc qua thẳm sâu lương tâm. Có sứ điệp khiến ta hạnh phúc rộn ràng, cũng có sứ điệp làm ta âu lo, sợ hãi. Không ít lần ta chần chừ, tránh né, thậm chí tìm cách gạt bỏ lời mời gọi của Chúa. Học ở Đức Maria, chúng ta được khích lệ hãy đặt câu hỏi khi chưa hiểu rõ, hãy suy tư và lắng nghe; rồi khi đã được “giải thích” – qua Lời Chúa, qua Giáo Hội, qua những dấu chỉ – ta hãy mạnh dạn “xin vâng” trong niềm tin cậy. Đó chính là cách để “Kế Hoạch” của Chúa được hiện thực hóa ở đây, lúc này, trong chính cuộc đời ta.

Trong bối cảnh phụng vụ hôm nay, Thánh Phaolô nhắc lại cách Chúa Giêsu hiến thân tuân phục ý Chúa Cha, trở thành Hy Lễ Thập Giá duy nhất, một lần cho muôn thế hệ. Nơi Con Thiên Chúa, sự “xin vâng” đạt đến đỉnh điểm: Vâng phục đến mức chịu nhục hình, chịu chết trên thập giá, dâng chính Máu Thánh mình để giao hòa nhân loại với Thiên Chúa. Sự “xin vâng” của Đức Maria, do đó, cũng liên đới với sự “xin vâng” của Con Mẹ – Đấng sẽ đi trọn con đường khổ nạn, phục sinh. Qua mọi gian nan, khổ cực, Mẹ vẫn gắn bó, đồng hành với Con, “đứng dưới chân thập giá” (x. Ga 19:25).

Chúa Giêsu, Chiên Hiến Tế vô giá, chỉ dâng Hy Lễ Một Lần, nhưng có hiệu lực từ thuở hồng hoang cho đến tận thế. Còn chúng ta, phàm nhân tội lỗi, phải tự thanh luyện mỗi ngày, dâng lễ đền tội cho mình và cho tha nhân. Thế nhưng sự khác biệt này không cản trở giá trị hiệp thông, miễn là chúng ta biết tháp nhập hy lễ bé nhỏ của mình vào Hy Lễ duy nhất của Chúa, với lòng tin tưởng và khiêm tốn. Mỗi Thánh Lễ đều là nơi chúng ta “dâng” những yếu đuối, lo toan, âu sầu, và cũng là nơi ta “nhận” ơn tha thứ, bình an, và niềm vui ơn cứu độ.

Những lời sau cùng của bài đọc Tin Mừng hôm nay (Lc 1:38) “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa…” mang giá trị muôn đời. Từ giây phút ấy, “Ngôi Hai Xuống Thế Làm Người” – một mầu nhiệm lớn lao vượt quá trí hiểu nhân loại. Là người con thảo của Mẹ Maria, chúng ta dâng lời cảm tạ vì chính nhờ Mẹ “xin vâng” mà mọi tín hữu hôm nay được hưởng niềm hy vọng trường sinh. Mẹ đã sẵn sàng đánh đổi sự yên ổn đơn sơ của mình, dẫu biết “lời thưa” ấy sẽ dẫn Mẹ tới Vườn Cây Dầu, tới đỉnh đồi Golgotha, chứng kiến Con Mẹ chịu tủi nhục và khổ hình. Nhưng Mẹ không lùi bước, không kêu ca. Mẹ tiếp tục “xin vâng” cho đến tận cùng.

Trong thực tế, không phải lúc nào “vâng lời” cũng là điều dễ dàng. Lịch sử cứu độ cho thấy ai vâng phục Chúa thì được ơn phúc, còn ai cứng lòng thường chuốc lấy đau khổ. Từ vua A-khát đến đời chúng ta, bài học vẫn còn nguyên tính thời sự. Biết bao lúc chúng ta dửng dưng, thoái thác, hoặc “khiêm tốn giả” như vua A-khát, để rồi lỡ mất cơ hội đón nhận ân sủng Chúa ban. Thái độ của Mẹ Maria cho ta thấy: Muốn “xin vâng” thì trước hết phải thật lòng tin rằng Chúa quyền năng và yêu thương. Nếu chúng ta chỉ nhìn “khó khăn”, chỉ nhìn “thiệt thòi” của bản thân, ta sẽ buông xuôi. Nhưng nếu tin tưởng tuyệt đối, nhìn xa hơn giới hạn, chúng ta sẽ phó thác giống như Mẹ.

Điều quan trọng nữa là khi ta “xin vâng” cùng Chúa, ta không hề mất mát, mà ngược lại còn nhận được niềm vui sâu xa. Chúng ta đôi khi sợ hãi, không dám hoàn toàn “xin vâng” thánh ý Chúa, vì ngại Ngài sẽ “lấy mất” sự tự do, niềm vui, đam mê của ta. Thực ra, Chúa chỉ “xin” ta cộng tác để thanh luyện và thăng hoa mọi sự, hầu dẫn ta tới hạnh phúc đích thực. Như Mẹ Maria, từ lúc cưu mang Con Chúa, Mẹ “mất” đi không ít dự tính riêng, nhưng Mẹ nhận lại niềm hạnh phúc vô biên: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1:49).

Đứng trước Lễ Truyền Tin, chúng ta lại càng ý thức lời Thánh Vịnh: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật… con đến để thi hành thánh ý Ngài” (Tv 40:7-9). Ý Chúa không phải là bó buộc, mà là lời mời để chúng ta triển nở trong tình yêu. Mỗi người có thể có một “sứ điệp” Chúa trao cách riêng, có thể là sống đời hôn nhân với lòng chung thủy, có thể là bước vào bậc sống tu trì, dấn thân hoạt động tông đồ, có thể là chịu đựng bệnh tật với tinh thần phó thác… Thảy đều là sứ điệp Chúa gửi trao, và câu hỏi là: “Chúng ta có sẵn sàng thưa Xin Vâng hay không?”

Tạ ơn Chúa vì Ngài vẫn ban Thánh Thần hiện diện để soi sáng, hướng dẫn. Như sứ thần Gáprien đã giải thích cho Mẹ Maria, Thánh Thần cũng có thể “rợp bóng” trên chúng ta. Nhất là khi ta không nản chí, nhưng tiếp tục cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa, năng lãnh nhận các bí tích, ta sẽ được ơn để hiễu rõ ý Chúa hơn và can đảm thực hiện. Có thể ta sẽ phải đấu tranh với bao nghi ngại, bao định kiến, hay chống đối từ người xung quanh, nhưng hãy nhìn gương Mẹ Maria. Ngay cả khi Mẹ vội vã đi thăm người chị họ Êlisabét, Mẹ vẫn trao tặng nụ cười và niềm vui, để rồi được bà Êlisabét ca tụng: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:45).

Nguyện xin Chúa cho chúng ta sống được tinh thần đó. Nhân Lễ Truyền Tin, chúng ta cảm tạ Chúa đã yêu thương nhân loại đến mức Ngôi Hai giáng thế làm người. Chúng ta cũng bày tỏ lòng biết ơn sâu xa với Đức Maria, vì lời “xin vâng” của Mẹ đã mở đường cho Ơn Cứu Độ. Ước chi mỗi chúng ta, trong từng hoàn cảnh sống, cũng can đảm đáp lại lời mời gọi của Chúa, để sứ điệp yêu thương và ơn cứu độ luôn được cụ thể hóa nơi cuộc đời mình.

Lm. Anmai, CSsR

THEO CHÂN MẸ CẤT TIẾNG XIN VÂNG

Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta cử hành lễ Truyền Tin, một biến cố quan trọng mở ra trang mới cho công trình cứu độ nhân loại. Biến cố ấy diễn ra tại một miền quê hẻo lánh có tên là Nagiaret. Trong khung cảnh bình dị, ấm cúng của một mái nhà nhỏ bé, một cuộc đối thoại lịch sử đã được ghi lại vĩnh viễn trong tâm trí người Kitô hữu: cuộc đối thoại giữa sứ thần Gabriel và cô thôn nữ Maria. Đây chính là lúc trời và đất gặp nhau, lúc con người và Thiên Chúa nên một. Tất cả chỉ gói gọn trong vài khoảnh khắc, nhưng đủ để thay đổi dòng lịch sử nhân loại. Cuộc gặp ấy đơn sơ, bất ngờ và không hề được báo trước. Sứ thần hiện đến, mang theo một sứ điệp ngỡ ngàng. Maria cũng không hề chuẩn bị gì về mặt tinh thần hay vật chất. Bà bối rối, phân vân, không biết sứ thần muốn nói gì, càng không dám nghĩ mình có thể được phúc đức trọng đại như thế. Thế nhưng, như câu chuyện chúng ta đều quen thuộc, sứ thần đã trấn an: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ.”

Bằng một lời chào ngắn gọn, nhưng chứa đựng ý nghĩa cao vời, sứ thần Gabriel mở ra trước mắt Maria một chân trời mới, khiến cô thôn nữ e dè càng thêm bối rối. Trên thực tế, có lẽ chưa bao giờ Maria nghĩ rằng chính mình lại là người được chọn để cưu mang Đấng Cứu Thế. Bà chỉ sống âm thầm, khiêm tốn trong căn nhà nhỏ, hằng ngày siêng năng làm việc, cầu nguyện và phụng thờ Chúa bằng trọn lòng yêu mến. Xét về mặt tự nhiên, chưa có điều gì trong đời sống Maria cho thấy bà sẽ bước vào một sứ mạng cao cả đến vậy. Tất cả đều là sáng kiến đến từ Thiên Chúa và được “truyền tin” qua lời sứ thần. Maria không xin dấu lạ hay bằng chứng; bà chỉ băn khoăn: “Việc ấy sẽ xảy đến cách nào, vì tôi không biết đến người nam?” Câu hỏi ấy không phải đòi sự bảo đảm, mà đơn giản thể hiện một tâm hồn chân thành, muốn biết mình phải làm gì và làm thế nào để cộng tác với ơn Chúa. Sứ thần Gabriel liền giải thích: “Thánh Thần Chúa sẽ ngự xuống trên Trinh Nữ, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Trinh Nữ.” Ngay lập tức, Maria mạnh dạn cất tiếng xin vâng: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền.”

Qua lời thưa ấy, Maria tỏ bày một niềm tin sắt son, một tấm lòng khiêm nhường, sẵn sàng để Chúa thực hiện ý định của Ngài, cho dù điều ấy vượt quá mọi suy nghĩ thông thường. Có lẽ trong giây phút ấy, Maria cũng có thể bị xáo trộn, vì mang thai Đấng Cứu Thế là biến cố vô cùng to lớn, ảnh hưởng đến cả cuộc đời bà. Nhưng vẫn một lòng tin tưởng và phó thác, Maria đồng ý để Chúa dẫn dắt tương lai của mình. Nhờ tiếng “xin vâng” này, trời cao và đất thấp được kết nối, Ngôi Lời Thiên Chúa bắt đầu mặc lấy xác phàm, trở nên Em-ma-nu-en – “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Biến cố Truyền Tin đã khắc ghi tên Maria vào chương trình cứu độ và biến bà thành một mắt xích không thể thiếu trong lịch sử ơn cứu rỗi.

Nhìn lại sáu tháng trước, cũng diễn ra một cuộc truyền tin khác, nhưng cách đón nhận của con người lại khác. Đó là khi sứ thần Chúa hiện ra với ông Giacaria, loan báo rằng vợ ông, bà Êlisabét, sẽ thụ thai trong lúc tuổi già và sẽ sinh ra Gioan Tẩy Giả. Bối cảnh cũng thầm lặng, ấm cúng, nhưng dường như có khác biệt lớn về mặt tâm lý. Giacaria là một tư tế đền thờ, ông phục vụ Chúa liên tục, nên có thể coi là người gần gũi với các việc thánh. Thế mà khi nghe sứ thần loan báo vợ ông sắp sinh con dù tuổi đã cao, ông lại không thể tin. Giacaria đòi dấu lạ, đòi một chứng cứ cụ thể để tin rằng điều đó có thể xảy ra. Và sứ thần đã để ông câm lặng cho đến ngày những lời sứ thần truyền được thực hiện, như một dấu chỉ rằng lời Chúa phán thì không bao giờ sai.

Hai cuộc truyền tin, hai mảnh đời, nhưng cũng là hai bài học quý giá cho chúng ta. Về phía Maria, sự tin tưởng và thái độ sẵn sàng phó thác cho thấy đức tin mạnh mẽ của Mẹ. Mẹ đã không đòi hỏi bằng chứng, nhưng tự nguyện để Thánh Thần hoạt động nơi mình. Mẹ “mở toang” cánh cửa lòng, để quyền năng Chúa rợp bóng. Mẹ “xin vâng” với niềm khiêm tốn, với sự trân trọng tuyệt đối ý định của Thiên Chúa. Còn Giacaria, một vị tư tế gắn bó với Đền Thờ, nhưng trong giây phút bất ngờ ấy lại tỏ ra nghi ngại, đòi dấu chứng. Dẫu rằng Giacaria cũng là người công chính, hết lòng phụng sự Chúa, nhưng sự dao động và thiếu tin đã khiến ông câm lặng một thời gian. Chỉ khi đứa trẻ Gioan chào đời, ông cất tiếng nói để chúc tụng Chúa. Hai thái độ đón nhận khác nhau dẫn đến hai kết quả khác nhau, nhưng Thiên Chúa vẫn thực hiện chương trình cứu độ của Ngài. Cả Maria và Giacaria vẫn được Chúa yêu thương và tín nhiệm, qua hai cách thức khác nhau; chỉ khác là ai vững tin hơn thì tiến bước nhẹ nhàng hơn, người ngập ngừng hơn thì trải qua vài gian nan để có thêm kinh nghiệm về quyền năng Chúa.

Nếu có một điều gì chung nơi Maria và Giacaria, thì đó chính là cuộc sống đẹp lòng Thiên Chúa. Ở một người là cô thôn nữ vùng quê, ở người kia là tư tế đền thờ, nhưng cả hai đều sống hết tình với Chúa, yêu mến tha nhân và nhiệt thành chu toàn bổn phận. Cuộc đời họ tỏa ra hương thơm của đức công chính và lòng mến. Có lẽ chính vì thế mà Thiên Chúa đã chọn các ngài làm cộng sự đắc lực để khai mở những chương mới trong chương trình của Ngài. Thật ý nghĩa khi nghĩ rằng Chúa không nhìn con người chúng ta ở khía cạnh tài năng, học thức, hay địa vị, nhưng Người nhìn tấm lòng, nhìn sự chân thành và quảng đại. Thời khắc Truyền Tin cho Maria hay cho Giacaria không phải vô cớ, mà là hệ quả tất yếu của một đời sống hằng làm vui lòng Chúa. Niềm hạnh phúc và vinh dự của họ không phải tự nhiên rơi xuống, nhưng là kết quả của cuộc sống luôn tìm kiếm thánh ý Chúa trong từng việc nhỏ.

Hôm nay, suy niệm Lễ Truyền Tin, chúng ta được mời gọi trở nên những con người sẵn lòng cất tiếng “xin vâng” để Chúa hành động trong cuộc sống. Đôi khi ta cũng bối rối trước những kế hoạch của Chúa, trước những điều Ngài muốn ta đảm nhận. Có lúc, những trách nhiệm ấy vượt quá suy tính bình thường: phải hy sinh nhiều hơn, phải từ bỏ sự an nhàn, phải dám sống cho lý tưởng Tin Mừng giữa muôn thách đố. Chúng ta có thể e ngại như Giacaria, hoặc dũng cảm như Maria. Chúng ta có thể đòi hỏi dấu lạ, hoặc tin tưởng để Chúa dẫn dắt. Chính lúc này, mỗi người hãy tự vấn: “Tôi dám để Chúa sắp xếp đời mình đến đâu?” “Tôi dám cất tiếng ‘xin vâng’ trước lời mời gọi của Chúa, hay vẫn còn đắn đo, tìm lý lẽ, tìm chứng cớ để tự trấn an?” Thiên Chúa không trách chúng ta yếu đuối hay nhỏ bé. Ngược lại, Ngài yêu thương, tôn trọng tự do của mỗi người, và kiên nhẫn chờ đợi câu trả lời. Ngài cũng sẵn sàng cung cấp ơn sủng cần thiết, miễn là chúng ta mở lòng, để Thánh Thần rợp bóng, ban sức mạnh vượt qua những lối suy nghĩ hạn hẹp của mình.

Bài học từ Maria và Giacaria cũng cho thấy một chân lý: Hễ ai sống hết mình vì Chúa, thì Chúa sẽ làm biết bao điều tốt đẹp cho họ. Maria dâng Chúa tấm lòng khiết trinh, giản dị và quảng đại, Chúa liền ban tặng cho Mẹ đặc ân cao trọng: trở thành Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể. Giacaria tận tụy lo việc Đền Thờ và nhận được hồng phúc có người con nối dõi, đó là Gioan Tẩy Giả – vị tiên hô chuẩn bị đường cho Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa không bao giờ quên tấm lòng tận tụy của con cái Ngài. Ai sống đẹp lòng Chúa đều nhận được những ơn lành, có thể không phải lúc nào cũng lạ lùng, nhưng chắc chắn đủ để chúng ta nhận biết bàn tay Chúa dẫn dắt cuộc đời.

Đến đây, chúng ta thấy một sứ điệp khác được lóe lên: Lời Chúa vẫn mời gọi mọi Kitô hữu sống lan tỏa tình yêu, hương thơm bác ái giữa dòng đời. Mỗi người tín hữu được mời cộng tác với ơn Chúa trong bậc sống của mình. Có người làm cha mẹ trong gia đình, có người dấn thân trong hội đoàn, trong công tác xã hội, có người phục vụ trực tiếp tại cộng đoàn giáo xứ… Dù hoàn cảnh khác nhau, ai cũng được thúc giục “xin vâng” với thánh ý Chúa, để chu toàn bổn phận hiện tại bằng tất cả tình yêu và lòng nhiệt thành. Khi chúng ta sống xứng đáng là con cái Chúa, biết yêu thương, tha thứ, và phụng sự tha nhân, danh Chúa được tỏa sáng. Đó cũng là cách ta làm cho lời Chúa, Tin Mừng của Chúa, tiếp tục “nhập thể” vào thế giới hôm nay.

Suy niệm về Lễ Truyền Tin cũng giúp ta hồi tâm, nhận ra Đức Maria không chỉ là một nhân vật thụ động. Mặc dù Mẹ là người được chọn, nhưng Mẹ vẫn hoàn toàn có tự do để nói “không” hoặc “chờ thêm”. Nếu Mẹ từ chối sứ thần, có lẽ Thiên Chúa sẽ chọn một cô thôn nữ khác. Nhưng Mẹ đã mau mắn vâng theo, dù chưa hiểu hết mọi sự. Ngay khi ấy, Mẹ bắt đầu hành trình chuỗi ngày sứ mạng: cưu mang và dưỡng nuôi Đấng Cứu Chuộc, cùng Người vượt qua bao nguy nan, từ biến cố hang đá Bêlem đến cuộc chạy trốn sang Ai Cập, và đặc biệt là đứng dưới chân thập giá trên đồi Canvê. Tất cả đều bắt đầu từ một lời “xin vâng” trong căn nhà nhỏ bé ở Nagiaret.

Cảm nghiệm cuộc đời của Mẹ Maria, chúng ta thêm xác tín rằng sống đức tin không phải lúc nào cũng dễ dàng; đôi khi đó là con đường nhiều thử thách. Nhưng hễ ai hết lòng tin tưởng và yêu mến, Chúa sẽ ban ơn đủ để họ đứng vững giữa sóng gió. Maria tiếp tục khích lệ chúng ta: hãy can đảm đón nhận phần mình trong kế hoạch của Thiên Chúa, đừng sợ hãi, đừng rụt rè trước những đòi hỏi của Phúc Âm. Có thể chúng ta phải hy sinh, phải thay đổi nhiều thứ, phải mở rộng vòng tay hơn, phải sống bác ái hơn, và nhất là biết nhìn thấy những nhu cầu của anh chị em chung quanh mình. Chúng ta được mời gọi hãy “đồng công” với Chúa trong công cuộc xây dựng Nước Trời, như Mẹ đã để Chúa Thánh Thần tác động nơi Mẹ.

Trong bối cảnh đời sống hôm nay, có biết bao thách thức đối với người Kitô hữu: xáo trộn gia đình, cạnh tranh kinh tế, trào lưu sống thực dụng… Đứng trước những điều ấy, ta có thể ngần ngại, lo sợ, thậm chí mất hy vọng. Nhưng Lễ Truyền Tin nhắc nhở: chỉ cần có Chúa Thánh Thần, quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng, soi sáng và nâng đỡ con người yếu đuối của chúng ta. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi những kẻ thành tâm tìm kiếm Ngài. Con người chỉ cần phó thác và để Chúa hành động. Đó là con đường giản dị nhưng mạnh mẽ mà Mẹ Maria đã sống, đã nêu gương và đã thể hiện trọn vẹn từ lúc truyền tin cho đến khi về trời.

Hôm nay, chúng ta chiêm ngắm hình ảnh Mẹ Maria trong biến cố Truyền Tin, để xin Mẹ cầu bầu cho chúng ta một tâm hồn trong sáng và một tấm lòng quảng đại như Mẹ. Tấm lòng trong sáng ấy thể hiện trong sự khiêm nhường và khiết tịnh. Tấm lòng quảng đại ấy được chứng minh bằng thái độ luôn mở ra trước chương trình của Chúa, không do dự nghi nan. Nhờ Mẹ dẫn dắt, chúng ta học biết cách sống hết mình trong ơn gọi Kitô hữu, lan tỏa hương thơm bác ái, cảm thông, tha thứ và phục vụ. Đồng thời, chúng ta cũng nhớ lời Chúa Giêsu: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, còn các sự khác Người sẽ ban cho sau” (Mt 6,33). Maria, Giacaria, thậm chí vợ ông là Êlisabét – tất cả đều đặt Chúa và luật Chúa lên trên hết. Và Thiên Chúa, Đấng nhìn thấy tấm lòng người công chính, đã đổ muôn ơn lành xuống cho họ, biến cuộc đời họ thành một phần không thể thiếu của lịch sử ơn cứu độ.

Xin Mẹ Maria, Đấng luôn đẹp lòng Thiên Chúa, dạy chúng ta noi gương Mẹ mà sống một đời yêu thương, khiết tịnh và quảng đại. Xin Mẹ giúp ta nhận ra rằng ngay trong những bổn phận tầm thường, nhỏ bé nhất, Chúa vẫn trao ban ơn gọi và công việc của Ngài. Biết đâu chính ngày hôm nay, Chúa cũng đang sai “sứ thần” đến gõ cửa tâm hồn chúng ta, gợi lên một sứ mạng mới, một lời mời gọi mới. Chúng ta sẽ chọn thái độ nào: xin một dấu lạ khác hay khiêm tốn xin vâng? Chúng ta sẽ câm lặng vì nghi ngại, hay reo vui chúc tụng Chúa? Lựa chọn ấy tuỳ thuộc chính chúng ta, nhưng ơn Chúa luôn đủ cho ai thành tâm tìm kiếm và mở lòng đón nhận. Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta ơn can đảm đáp lại tiếng gọi của Ngài bằng những hành động cụ thể, bằng một lối sống chan hòa tình yêu thương và tôn trọng phẩm giá của mọi người.

Lạy Mẹ Maria, qua biến cố Truyền Tin, Mẹ đã khởi đầu cho một kỷ nguyên mới, khởi đầu cho sự hiện diện của Ngôi Lời giữa nhân loại chúng con. Xin Mẹ tiếp tục cầu bầu cho chúng con có được sự “xin vâng” quảng đại như Mẹ. Xin cho chúng con hiểu rằng Chúa luôn ở bên, luôn mời gọi chúng con cộng tác. Cầu xin cho chúng con cũng tỏa sáng đức tin bằng sự hiền hòa, nhẫn nhịn, lòng bác ái với mọi người, để danh Chúa được rạng rỡ nơi gia đình, giáo xứ, cộng đoàn và xã hội. Nhờ lời Mẹ chuyển cầu, nguyện ơn Chúa Thánh Thần luôn bao phủ, uốn nắn, chữa lành và hướng dẫn chúng con trên mọi nẻo đường. Chúng con tin rằng khi chúng con đặt Chúa lên ưu tiên hàng đầu, chúng con sẽ không mất gì, ngược lại còn lãnh nhận “biết bao điều cao siêu” như cách Chúa đã thi ân trên đời sống của Mẹ, của Giacaria, và của bao người công chính khác.

Xin Mẹ giúp chúng con biết sống sao cho đẹp lòng Chúa, để chúng con cũng được Chúa “nhìn thấy từ trời cao” và trao phó những trách nhiệm lớn hơn, đem lại lợi ích cho phần rỗi của chúng con và cho tất cả những ai chúng con gặp gỡ. Nguyện đời sống chúng con phản ánh sự hiện diện dịu hiền của Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, để bất cứ ai tiếp xúc cũng nhận ra nơi chúng con có ánh sáng của Tin Mừng, có tình yêu bao dung và niềm hy vọng vững bền. Như Mẹ đã đón nhận Thánh Thần với lòng phó thác trọn vẹn, xin Mẹ cũng làm cho tâm hồn chúng con được thanh khiết, vẹn tuyền, để Chúa có thể “đồng hành” và “cư ngụ” trong chúng con, hầu chúng con tiếp nối Mẹ, biến thế giới này thành mái nhà tràn ngập sự sống và tình yêu của Thiên Chúa.

Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con biết sẵn sàng bước tới, không sợ hãi, để đáp lại mọi ý định của Chúa. Xin biến trái tim chúng con thành máng chuyển ơn của Chúa cho mọi người, ngõ hầu chúng con có thể sống trọn ơn gọi làm Kitô hữu: yêu thương, khiêm nhường và phục vụ trong hân hoan. Giữa bao xô bồ, cám dỗ và thử thách, nguyện xin Mẹ giữ chúng con trung thành trong đức tin. Xin cho chúng con học được nơi Mẹ cách mau mắn lên đường “thăm viếng” những người đang cần nâng đỡ, để niềm vui ơn cứu độ được lan tỏa đến khắp chốn, như chính Mẹ đã đem niềm vui đến cho bà Êlisabét. Và sau cùng, xin cho chúng con cùng Mẹ hát lên khúc ca Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,” vì mọi sự tốt đẹp chúng con có được đều xuất phát từ Chúa, và Ngài vẫn đang cắm lều giữa chúng con.

Lm. Anmai, CSsR

ĐÁP LỜI XIN VÂNG NHƯ MẸ

Khi chiêm ngắm cuộc đời của Đức Maria, hình ảnh đầu tiên và nổi bật nhất đi vào tâm trí chúng ta chính là giây phút Mẹ cất tiếng “Xin Vâng” trong ngày Truyền Tin. Đó là lúc Mẹ bắt đầu hành trình làm Mẹ một cách hết sức đặc biệt, không giống như bao người phụ nữ khác. Trong đời thường, việc thụ thai và sinh con vốn mang đến hạnh phúc và niềm vui khôn tả. Nhưng đối với Mẹ Maria, niềm vui ấy vừa được đan xen bằng vô vàn âu lo trước một sứ mạng lớn lao quá sức con người. Khoảnh khắc làm mẹ của Mẹ khởi sự không phải bằng những sự chuẩn bị thông thường của một đôi hôn thê, cũng không dựa trên kế hoạch nào của loài người, nhưng là bằng lời sứ thần Gabriel ngỏ cùng Mẹ: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà!” (Lc 1,28). Mẹ đã được Thiên Chúa tuyển chọn để cưu mang Con Đấng Tối Cao. Thế nhưng, con đường Thiên Chúa mở ra cho Mẹ không chỉ tô điểm bằng hoan lạc, mà kèm theo đó là muôn vàn thách đố. Sự hiện diện của thiên sứ trong một khung cảnh chốn thôn quê đơn sơ đã báo trước một hành trình đầy bất ngờ và sâu xa, đòi hỏi Mẹ phải dấn thân, hy sinh và can đảm hơn bao giờ hết. Không ai có thể lường trước được rằng, đằng sau niềm vui được gọi là “Mẹ Thiên Chúa” là sự dự phần vào nỗi khổ đau của bóng Thập Giá. Thế nhưng, Mẹ vẫn cất lên lời “Xin Vâng” vẹn tròn tin yêu, để rồi từ khoảnh khắc ấy, Mẹ bước vào cuộc đời với một ơn gọi vượt sức trí hiểu của loài người.

Chính Tin Mừng Luca hôm nay dẫn chúng ta đến cung lòng thiêng liêng của Mẹ trong ngày lễ Truyền Tin. Tin Mừng vắn tắt nhưng hàm chứa một chiều sâu khôn tả. Mẹ đã nói với sứ thần một lời cam kết ngắn ngủi nhưng vang vọng muôn đời: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ thực hiện nơi tôi…” (Lc 1,38). Giây phút ấy, bao điều lớn lao hình thành bên trong tâm hồn Mẹ. Bằng lời “Xin Vâng” ấy, Mẹ khởi đầu cuộc làm mẹ huyền diệu: Mẹ mang trong lòng chính Ngôi Lời, Con Thiên Chúa. Đồng thời, Mẹ ý thức rằng mình hoàn toàn đặt số phận vào bàn tay Chúa. Không ai có thể đón nhận thiên chức “Mẹ Đấng Cứu Thế” mà lại không mang theo vô vàn hy sinh, chẳng ai dám bảo đảm Mẹ có thể an bình nếu chỉ dựa vào sức loài người. Nhưng Mẹ vẫn “Xin Vâng”, vì Mẹ nhận ra bàn tay Chúa đã tuyển chọn Mẹ, bao bọc Mẹ và sẽ đồng hành cùng Mẹ. Qua biến cố đó, Mẹ làm nên “tiếng gọi” cho cả nhân loại, để mọi thời mọi nơi, các tín hữu noi gương Mẹ mà quảng đại bước đi theo thánh ý Chúa, mặc dù có thể không hiểu hết mọi sự, hay đứng trước những giới hạn của mình.

Biến cố Truyền Tin cũng cho thấy Thiên Chúa hành động theo cách thức khác xa sự dự liệu của con người. Đấng Toàn Năng không chọn con đường uy quyền hào nhoáng, không chọn một người phụ nữ lừng lẫy danh giá, nhưng lại chọn một thiếu nữ thôn quê Nazareth tầm thường. Mẹ Maria đã đón nhận ơn gọi cao cả giữa sự đơn hèn bề ngoài. Thiên Chúa không đòi Mẹ phải có chứng chỉ nào, không chờ Mẹ sở hữu một loạt thành tựu trác tuyệt, Người chỉ cần Mẹ có lòng quảng đại, đức tin mạnh mẽ và sự tín thác trọn vẹn. Nếu thiếu một trong ba điều ấy, Mẹ đã không thể cất tiếng “Xin Vâng” trước kế hoạch vượt sức loài người của Chúa. Nếu Mẹ không có lòng quảng đại, Mẹ sẽ khước từ bóng Thập Giá ngay từ lúc khởi đầu. Nếu Mẹ không có đức tin mạnh mẽ, Mẹ sẽ đắn đo, lo sợ, thậm chí hoài nghi chính sứ điệp từ thiên sứ. Và nếu Mẹ không tín thác bản thân cho Thiên Chúa, Mẹ sẽ không can đảm đương đầu với tiếng đời phán xét, với nguy cơ bị hiểu lầm, thậm chí bị loại trừ trong bối cảnh xã hội thời bấy giờ. Quả thật, lời thưa của Mẹ không chỉ là “Xin Vâng” một cách thụ động, nhưng còn phản ánh sự quảng đại lớn lao, khắc họa niềm tin mãnh liệt và tỏa chiếu sự khiêm nhường thẳm sâu.

Để có thể hiểu rõ hơn, chúng ta hãy đặt mình vào hoàn cảnh Mẹ ngày ấy. Mẹ đã đính hôn với Thánh Giuse. Theo phong tục Dothái, việc đính hôn tương đương một lời cam kết chung thủy trọn đời, chỉ còn chờ ngày về chung sống chính thức. Nhưng bỗng dưng Mẹ nghe tin mình sẽ thụ thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Người thường sẽ kinh hãi, sẽ thắc mắc rằng: “Chuyện này xảy đến thế nào? Rồi dân làng sẽ dị nghị ra sao? Thánh Giuse có tin mình không? Và lề luật sẽ xét xử thế nào?” Nhưng Mẹ Maria, dẫu có hỏi “Việc đó sẽ xảy ra cách nào?” thì cũng chỉ là để tìm hiểu, chứ không phải để nghi ngờ quyền năng của Chúa. Mẹ can đảm nhìn vào sự thật, rằng con đường làm mẹ này không chỉ đơn thuần là làm mẹ một đứa con. Đứa Con Mẹ cưu mang là Con Đấng Tối Cao, là Đấng Cứu Độ, là sự hiện thân của chính Thiên Chúa làm người. Thế rồi, Mẹ đã bằng lòng xin vâng, dẫu Mẹ chưa thấy được hết những éo le phía trước, dẫu một Thập Giá đang chờ đợi trong tương lai. Chính đây là thái độ của một đức tin tinh ròng, của tấm lòng phó thác tuyệt đối. Tựa như hạt giống rơi vào lòng đất, Mẹ để Chúa tùy nghi định đoạt cuộc đời mình, để ý Chúa nảy mầm và trổ sinh hoa trái cứu độ cho cả nhân loại.

Hành trình làm Mẹ nơi Mẹ Maria còn được chiếu tỏa rạng ngời qua các chặng đường cuộc đời Chúa Giêsu. Bắt đầu bằng lời “Xin Vâng” trong cảnh Truyền Tin, Mẹ lại tiếp tục cùng Con vượt mọi khó khăn: Mẹ sinh Chúa nơi hang đá Bêlem, chấp nhận cái nghèo cái hèn; Mẹ bồng bế Hài Nhi trốn chạy sang Ai Cập khi bị vua Hêrôđê săn lùng; Mẹ lặn lội tìm Con giữa đám đông khi Chúa Giêsu 12 tuổi lạc ở Đền Thờ; và nhất là Mẹ hiện diện lặng lẽ dưới chân Thập Giá khi Con chịu khổ nạn. Ở mỗi chặng hành trình, Mẹ không ngừng lặp lại âm thầm trong lòng “Xin Vâng”, chấp nhận phần đau khổ đính kèm với sứ mạng cao cả. Quả thật, nếu không có lòng quảng đại, Mẹ đã tháo lui trước Thập Giá. Nếu không có đức tin, Mẹ đã buông xuôi trong nước mắt nơi đồi Canvê. Nếu không tín thác, Mẹ đã chẳng còn can đảm bước đi khi chứng kiến Con mình chịu khinh miệt và chịu chết. Trong im lặng, Mẹ hiến dâng những nỗi khổ đau vì Mẹ biết rằng đây cũng chính là kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Sự quảng đại, đức tin và lòng tín thác nơi Mẹ chính là ba cột trụ vững chắc, nâng đỡ Mẹ đi hết con đường thánh đức, để trở nên Mẹ Đấng Cứu Thế và Mẹ của toàn thể chúng ta.

Từ kinh nghiệm ấy, Đức Maria trở thành điểm tựa vững vàng cho Dân Chúa qua muôn thế hệ. Mẹ không phải một hình tượng xa rời thực tế, nhưng Mẹ đã trải qua đủ mọi gian nan khốn khó của kiếp người. Mẹ cảm thấu nỗi đau của chúng ta hôm nay, khi chúng ta phải vật lộn giữa một thế giới nhiễu nhương, đầy thử thách tinh thần, cạm bẫy xã hội, hay bế tắc kinh tế. Mẹ hiểu nỗi bấp bênh của những ai đang lo toan việc làm, nỗi đau của những ai đang bệnh tật, nỗi buồn của những trái tim tan vỡ vì phản bội, chia ly. Mẹ hơn ai hết biết rằng chỉ nhờ bám vào Thiên Chúa, dựa vào lòng thương xót của Người, chúng ta mới có thể tiếp tục “xin vâng” trong cuộc đời, mới có thể giữ niềm hy vọng giữa giông tố. Vì lẽ đó, mỗi khi gặp bế tắc, cảm tưởng như không còn lối thoát, người Kitô hữu luôn được mời gọi chạy đến bên Mẹ, kể cho Mẹ nghe, đặt mình dưới tà áo Mẹ để tìm sự ủi an và khẩn cầu Mẹ dẫn chúng ta về với Chúa. Bởi không ai hiểu con bằng Mẹ, không ai biết con cần gì bằng người mẹ. Mẹ Maria không chỉ trao cho chúng ta những lời khuyên, mà còn trao cho chúng ta chính Con của Mẹ, trao cho chúng ta nguồn mạch ân sủng để có thể kiên vững và tiến bước.

Trên hành trình đức tin, có những lúc chúng ta phải đối diện với “trăm chiều thử thách” (1Pr 1,6), không dễ để nói lên “Xin Vâng”. Chúng ta chùn bước vì sợ hãi thất bại, sợ hãi thiệt thòi, sợ dư luận. Thế nhưng nhìn lên Mẹ Maria, chúng ta thấy một tấm gương “Xin Vâng” tuyệt vời. Mẹ đã từng phải đối diện với dư luận, với sự hiểu lầm trong gia tộc, với rủi ro bị kết án bất trung. Nhưng Mẹ vẫn để cho thánh ý Chúa đơm bông. Rất nhiều lần, chúng ta ngại hy sinh, ngại cho đi, ngại liều mình vì Tin Mừng, nhưng Mẹ Maria đã chấp nhận phiêu lưu với Chúa mà không đòi hỏi Ngài minh chứng điều gì trước. Điều này gợi nhắc chúng ta rằng: đức tin và sự phó thác phải được sống động, phải dám nương tựa vào Chúa dù đường đời mịt mù. Tựa như Mẹ, chúng ta dâng đời mình cho Chúa, để Ngài dẫn dắt qua những nẻo đường. Có thể sẽ có thánh giá, sẽ có nước mắt, nhưng cũng sẽ có bình an và niềm vui sâu xa, vì “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1,49).

Ở trong mọi hoàn cảnh, Mẹ Maria sẵn sàng lắng nghe và đồng hành. Mẹ chính là nguồn an ủi cho những ai đang đau bệnh, ốm yếu thể xác, phải ngày ngày vật lộn với mũi tiêm, viên thuốc hay sự mệt nhoài của sức khỏe không còn trọn vẹn. Mẹ cũng là sự bình an cho những ai đang bị giằng xé bởi nỗi đau tinh thần: bị phản bội, bị gạt ra bên lề xã hội, bị người đời hắt hủi. Mẹ là nguồn cậy trông cho những ai vừa trải qua đổ vỡ gia đình, thất bại trong tình yêu, hay mất đi người thân yêu nhất. Không những thế, Mẹ còn là hy vọng cho những ai chông chênh khi công việc không suôn sẻ, tài chính bấp bênh, những ai gặp khó khăn trên bước đường học tập, hay đối diện với áp lực xã hội đè nặng. Thoạt nghe, dường như Mẹ quá đỗi hiền từ mà chúng ta sợ Mẹ chẳng thể gánh nổi nỗi đau khổng lồ của trần thế. Nhưng ta quên mất rằng, Mẹ đã ôm trọn Thập Giá của Con Mẹ suốt cuộc đời, Mẹ đã thông phần khổ nạn với Chúa Giêsu. Ai đã từng theo Chúa lên đỉnh Canvê cùng Chúa bằng tâm hồn tan nát, ắt người ấy có trái tim đủ mạnh để đón nhận và thông cảm mọi nỗi khổ đau. Nơi Mẹ, ân sủng và thương xót của Chúa tuôn trào, Mẹ luôn chuyển cầu cho chúng ta trước tòa Chúa. Khi chiêm ngắm Mẹ, chúng ta càng vững tin hơn rằng mọi nỗi đau đều có thể dẫn đến ơn cứu độ, nếu chúng ta biết kết hợp với Chúa và đón nhận bằng lòng mến.

Mỗi lần chúng ta nguyện “Kính mừng Maria đầy ơn phúc…” là mỗi lần chúng ta gọi đến danh Mẹ, ca tụng ơn sủng Chúa tuôn tràn nơi Mẹ và nhờ đó, Mẹ ban phát ơn lành cho chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta không dừng ở chỗ van xin, nhưng còn để Mẹ dạy ta biết nói “Xin Vâng” trong cuộc sống hằng ngày. Học theo Mẹ, chúng ta bắt đầu từ những chi tiết nhỏ bé nhất: sẵn sàng “xin vâng” trước lời mời gọi dấn thân trong gia đình, trong cộng đoàn, trước những trách nhiệm học hành hay lao động, trước nhu cầu yêu thương phục vụ đồng loại. Chúng ta tập mở lòng cho tha nhân, quảng đại hy sinh thời gian, công sức, thậm chí của cải để chia sẻ với người nghèo khổ. Chúng ta can đảm lên tiếng cho công lý, cho sự thật, dù phải chịu hiểu lầm hay tổn thương. Từng ngày, từng ngày, chúng ta học cách im lặng như Mẹ, học cách cưu mang Lời Chúa như Mẹ, học cách kết hợp với Chúa Thánh Thần để biết nắm tay người khổ đau, vực dậy những tâm hồn tan nát. Khi ấy, đời ta trở thành một sự nối dài của tiếng “Xin Vâng” thuở ban đầu của Mẹ, và cùng với Mẹ, chúng ta dâng Chúa những hy sinh nhỏ bé, những nhọc nhằn trần thế, tin rằng Chúa sẽ biến chúng thành ân sủng để cứu rỗi bản thân ta và thế giới chung quanh.

Sẽ có người lo sợ rằng nói “Xin Vâng” đồng nghĩa với chấp nhận khổ đau. Nhưng thật ra, khổ đau không xuất phát từ “Xin Vâng” mà từ chính thân phận mong manh của ta. Giữa xã hội hôm nay, kể cả khi ta ngoảnh mặt với ý Chúa, vẫn không thiếu thử thách đổ ập lên đời ta. Chỉ khác một điều: nếu ta nói “Xin Vâng”, nghĩa là ta có Chúa đồng hành, có Mẹ đồng hành, và do đó, nỗi khổ đau được biến đổi thành công cụ thăng tiến trong ân sủng và tình yêu. Ngược lại, nếu ta thoái thác lời mời gọi, nếu ta khước từ lắng nghe ý Chúa, nỗi khổ đau vẫn sẽ xuất hiện, nhưng ta sẽ đối diện một mình, chẳng biết đâu là lối ra, chẳng có niềm an ủi. Như Mẹ Maria, một khi đã tin tưởng, phó thác nơi Chúa, thì dầu đường đời chông gai, Mẹ vẫn kinh nghiệm niềm hạnh phúc sâu xa khi được cộng tác với Thiên Chúa trong việc cứu độ thế giới. Chẳng phải chính Mẹ đã thốt lên: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng…” (Lc 1,46-47) đó sao?

Khi chúng ta nói “Xin Vâng” với Chúa, chúng ta sẽ chiến thắng mọi sợ hãi, vì biết rằng chính Thiên Chúa là Đấng duy nhất nắm trong tay tương lai, nắm trong tay phúc lộc đời ta. Chúng ta can đảm làm chứng cho sự thật và tình thương, dù có thể bị thiệt thòi, mất mát. Đó là con đường mà Mẹ Maria đã đi. Và khi dõi theo bước chân Mẹ, chúng ta không lạc lõng, vì Mẹ luôn đi trước, dẫn dắt ta về với Chúa Giêsu. Nơi Mẹ, mọi lời hứa của Thiên Chúa đều trở nên “có” và “amen” (x. 2Cr 1,20). Nơi Mẹ, những khổ đau của ta trở nên nhẹ nhàng hơn, bởi Mẹ chia sẻ gánh nặng với chúng ta. Nơi Mẹ, những hoang mang của ta trở nên sáng tỏ, vì Mẹ chỉ về cho ta một đích đến duy nhất: “Ngài bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Chính Mẹ cũng dạy ta hãy nghe Lời Chúa và đưa Lời ấy vào đời sống. Và rồi, như ở tiệc cưới Cana, phép lạ sẽ diễn ra, nước sẽ hóa thành rượu ngon, đời sống ta sẽ tràn đầy niềm vui dù khởi điểm có thể thật thiếu thốn, hạn hẹp.

Như vậy, vào ngày lễ Truyền Tin, khi chúng ta mừng kỷ niệm biến cố Mẹ đón nhận việc cưu mang Con Thiên Chúa, chúng ta không chỉ ca khen một biến cố trong quá khứ, nhưng chúng ta được mời gọi họa lại nơi đời mình lời “Xin Vâng” đầy can đảm và đức tin. Hãy để Mẹ Maria trở thành điểm tựa, thành người hướng dẫn, để chúng ta học được thái độ bé nhỏ, hiền lành, vâng phục trước Thánh Ý. Đôi khi, lời “Xin Vâng” này sẽ đòi chúng ta buông bỏ một số tính toán ích kỷ, một số khuynh hướng nương tựa vào tiền bạc hay địa vị. Đôi khi, chúng ta phải giã từ một lối sống làm mất tình Chúa, mất tình người. Hoặc có những lúc ta được mời gọi ra khỏi “vùng an toàn” của mình để dấn bước trên con đường Chúa trao, đối diện với những thiệt thòi và khó khăn trước mắt. Nhưng hãy tin rằng, nếu Thiên Chúa đã sai ta đến, Người sẽ nâng đỡ. Và khi có Mẹ đi cùng, chúng ta càng vững lòng, vì “nơi nào có Mẹ, nơi ấy không bao giờ thiếu ân sủng của Chúa”. Niềm hy vọng và sức mạnh nội tâm sẽ bừng lên, thôi thúc ta sống xứng danh là Kitô hữu, hăng hái làm chứng cho Tin Mừng bằng chính cuộc sống yêu thương, công bằng và nhân ái.

Trên con đường đời nhiều sóng gió hôm nay, Mẹ Maria quả thực là máng chuyển ơn, là nơi ẩn náu cho mỗi chúng ta. Trải nghiệm của Mẹ về ơn gọi “làm mẹ” trong khung cảnh đặc biệt ngày Truyền Tin giúp chúng ta dám tin rằng, với Chúa, không gì là không thể. Niềm cậy trông của Mẹ giữa cảnh gian nan là gương mẫu cho mọi tín hữu bước đi. Dù chúng ta rơi vào hoàn cảnh nào: đau ốm, hoạn nạn, bị đối xử bất công, vấp ngã, tổn thương trong tình cảm gia đình, hay tuyệt vọng vì mất mát, Mẹ vẫn là người Mẹ chung thủy, nắm lấy tay chúng ta. Mẹ không chỉ đồng cảm, mà hơn nữa, Mẹ nâng chúng ta dậy và dẫn chúng ta trở về với Thiên Chúa. Đôi tay Mẹ âu yếm như thể truyền cho chúng ta ơn bình an bền vững mà thế gian không thể ban tặng. Nếu chúng ta khép chặt trái tim, chỉ biết buông xuôi trước thử thách, chúng ta sẽ mãi chìm trong bóng tối. Nhưng nếu như Mẹ Maria, chúng ta mở lòng mình để Chúa can thiệp, để Chúa Thánh Thần hoạt động, thì chắc chắn “Đấng Toàn Năng sẽ làm những điều cao cả” trong chúng ta (x. Lc 1,49).

Hãy cùng Mẹ cất tiếng “Xin Vâng” khi đối diện với mọi biến cố nhỏ to, mọi thử thách ngặt nghèo. Hãy để Mẹ dạy ta sống phong thái tin cậy, hân hoan dấn bước, đồng thời dành khoảng lặng kết hiệp với Chúa mỗi ngày để lắng nghe tiếng Người phán dạy. Ai cậy nhờ Mẹ, người ấy sẽ thấy mình can đảm đương đầu với nghịch cảnh. Ai đặt trọn niềm tin vào Mẹ, người ấy sẽ được Mẹ dẫn đến gặp Chúa Giêsu, nguồn mạch ơn cứu độ. Ai lấy Mẹ làm gương mẫu, người ấy sẽ học được nhân đức hy sinh, khiêm nhường, hiền hòa, và sẽ trở thành sứ giả bình an cho thế giới hôm nay. Đó chính là con đường ngắn nhất dẫn chúng ta đến Thiên Chúa, con đường Mẹ đã đi và Mẹ đang kêu mời chúng ta nối gót. Khi đời ta khép lại, chắc chắn Mẹ cũng sẽ không để chúng ta lạc lối, nhưng đón chúng ta vào cung lòng từ ái, để ta có thể chung hưởng vinh quang Nước Trời cùng với Mẹ, Đấng đã một lòng gắn bó với Chúa từ khởi sự cho đến trọn đời.

Giờ đây, trong ngày lễ Truyền Tin, chúng ta hãy nhìn ngắm Mẹ Maria với cả trái tim yêu mến, để cùng Mẹ cất tiếng “Xin Vâng” dâng lên Thiên Chúa. Xin Mẹ mở rộng cõi lòng chúng ta, để ta biết đón nhận ý Chúa trong mọi hoàn cảnh, biết phó thác bản thân và sẵn sàng cộng tác vào chương trình yêu thương của Người. Nhờ “Xin Vâng” mà Mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa, và cũng nhờ “Xin Vâng” của chúng ta – dù bé nhỏ – mà cuộc đời có thể nảy sinh những bông hoa hy vọng. Hãy mạnh dạn sống đức tin trong từng lời nói, việc làm, hãy bước đi với trọn sự cậy trông, và khi mệt mỏi, chán nản, xin đừng quên chạy đến với Mẹ để tìm điểm tựa, tìm sự nâng đỡ ngọt ngào. Có Mẹ cùng bước, chúng ta sẽ không lẻ loi. Có Mẹ chở che, chúng ta sẽ vượt thắng thử thách. Và một ngày kia, khi hành trình dương thế khép lại, chúng ta hy vọng sẽ được Mẹ đưa vào sự sống muôn đời trong Thiên Chúa, nơi “mọi giọt lệ sẽ được lau khô, và sẽ không còn tang tóc, kêu than, không còn đau khổ nữa” (x. Kh 21,4). Đó là niềm vui trọn vẹn và đích đến tối hậu của chúng ta, là viễn cảnh hạnh phúc cõi thiên thu, nơi chính Mẹ Maria đang chiếu tỏa hương thơm nhân đức và dang rộng vòng tay đón từng đứa con trở về. Amen.

Lm. Anmai, CSsR

SẴN SÀNG XIN VÂNG

Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta hân hoan mừng trọng thể lễ Truyền Tin Thiên Chúa nhập thể. Đây là dịp để chúng ta long trọng chiêm ngắm một biến cố vĩ đại trong lịch sử ơn cứu độ: giây phút Con Một Thiên Chúa chấp nhận đi vào trần gian, làm người như chúng ta, trở nên Emmanuen để thi hành chương trình cứu chuộc của Chúa Cha. Cùng với hình ảnh của Đức Giêsu, Phụng vụ Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta chiêm ngắm thái độ vâng phục tuyệt đối của Đức Maria trong biến cố truyền tin, để rồi nhìn lại chính đời sống đức tin của mình, ngõ hầu biết noi gương cả hai mẫu gương vĩ đại ấy mà mở lòng ra trước ý định yêu thương của Thiên Chúa.

Tuy rằng Lễ Truyền Tin nêu bật tước hiệu của chính Ngôi Hai Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ trần gian, nhưng đồng thời, Giáo Hội cũng nhấn mạnh đến vai trò cộng tác của Đức Maria qua lời “xin vâng” lịch sử. Trong lịch sử cứu độ, chưa bao giờ con người được mời gọi cách cụ thể như thế để tham dự vào chương trình của Thiên Chúa: Ngôi Hai chọn trở nên người phàm, và Người thiếu nữ Sion mang tên Maria dâng hiến chính cuộc đời, kế hoạch và ước nguyện riêng tư của mình cho Đấng Tối Cao. Khi chọn Mẹ Maria, Thiên Chúa cũng muốn nêu lên gương sáng lớn lao cho tất cả chúng ta: nếu như Evà xưa kia đã bất tuân, thì nay, qua lời xin vâng của Đức Maria, một kỷ nguyên mới được khai mở, một dân tộc mới được thiết lập, thay thế cho dân cũ đã trượt ngã trong tội lỗi. Từ giờ phút truyền tin, niềm hy vọng cứu độ bừng sáng, vì Con Thiên Chúa chính thức đến với nhân loại và ở giữa chúng ta.

Khi suy tư về sự vâng phục, chúng ta không thể không nhắc tới nhân vật trung tâm, đó là Đức Giêsu. Trong thư gửi các tín hữu Philípphê, thánh Phaolô đã làm nổi bật cách Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, lại không nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng chấp nhận trút bỏ vinh quang và mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Câu khẳng định này (Pl 2,6-7) cho thấy một sự chấp nhận “tự hủy” đến tột độ: từ địa vị Thiên Chúa, Người chọn hạ mình để cứu độ chúng ta. Chúa Giêsu làm như thế không phải bị ép buộc, nhưng hoàn toàn tự do, tự nguyện vì tình yêu. Trong suốt hành trình công khai, Người liên tục nhắc đến mối tương quan tình yêu với Chúa Cha, Người nói: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34). Sự vâng phục này không chỉ dừng lại ở lời nói, mà được minh chứng bằng cả cuộc đời: Người sống khiêm tốn, rao giảng Tin Mừng, đón nhận khổ nạn, và cuối cùng chịu chết trên cây thập giá để chuộc tội chúng ta. Tác giả thư Do Thái giải thích rằng Đức Giêsu đã vâng phục cho đến nỗi đổ máu mình ra, để rồi trở thành nguồn ơn cứu độ cho muôn người. Chính vì sự vâng phục ấy mà chúng ta được ơn giao hòa với Thiên Chúa. Thánh Gioan trong Tin Mừng cũng nhấn mạnh: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” (Ga 3,16). Tình yêu ấy không phải là lời hứa mơ hồ, nhưng là một hành động mang tính quyết định: Thiên Chúa ban chính Con của mình. Và Con của Thiên Chúa, trong thái độ tuân phục hoàn toàn, đã sẵn sàng bước xuống trần gian, sống giữa phận người, chấp nhận mọi nỗi giới hạn, đau khổ, hiểm nguy… để giải thoát chúng ta khỏi cảnh nô lệ tội lỗi. Như thế, chúng ta hiểu được: Nhập Thể là bước khởi đầu của hành trình hi sinh, là “vâng phục” để cứu độ, vâng phục đến cùng trong tình yêu.

Hôm nay, trong viễn cảnh mầu nhiệm này, Phụng vụ Giáo Hội đề cao vai trò của Mẹ Maria, đấng cộng tác cách tuyệt hảo với Chúa Giêsu. Thời Trung Cổ, người ta nhấn mạnh rất nhiều đến tước hiệu “Đồng Công Cứu Chuộc” của Mẹ. Mặc dù ngày nay, quan điểm thần học đã điều chỉnh để tập trung nhiều hơn vào Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất, nhưng vẫn không bao giờ loại bỏ, hay có thể loại bỏ, vai trò độc đáo của Mẹ trong chương trình cứu độ. Khi đọc Tin Mừng Luca, chúng ta gặp thấy sự kiện truyền tin với hình ảnh sứ thần Gáprien hiện ra và trao sứ điệp của Thiên Chúa cho Mẹ Maria. Ban đầu, Mẹ bối rối vì lời chào quá đỗi cao sang: “Kính chào Bà, Đấng đầy ân phúc!” (Lc 1,28). Sứ thần cho biết Mẹ sẽ thụ thai Con Thiên Chúa, mặc dù Mẹ chưa từng biết đến việc vợ chồng. Trước lẽ thường, Mẹ thắc mắc “Việc ấy xảy ra thế nào?”, nhưng khi nghe sứ thần giải thích: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà”, thì Mẹ đã hoàn toàn để tâm hồn mình mở ra trước chương trình của Chúa. Lời thưa “Xin vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa” (Lc 1,38) vang lên, khai mở kỷ nguyên ân sủng cho nhân loại. Hai tiếng “Xin vâng” ấy không chỉ là một lời xác nhận chớp nhoáng, mà là hành động tự do, xuất phát từ một đức tin kiên vững, một lòng mến sâu xa, và sự khiêm nhường đến tận cùng. Từ lúc ấy, cung lòng Mẹ trở thành nhà tạm đầu tiên của Ngôi Hai Thiên Chúa; Mẹ bắt đầu một hành trình mới, một cuộc lữ hành trần thế gắn bó khăng khít với Chúa Giêsu, Con Chí Ái của Mẹ.

Qua lời “xin vâng” này, Mẹ Maria đã bước vào mầu nhiệm Vượt Qua của Con Mẹ, không chỉ cưu mang Chúa Giêsu về mặt thể lý, mà còn cưu mang mọi niềm vui, nỗi ưu tư, sứ mạng và cả thập giá của Người. Chính vì vậy, Giáo Hội tôn vinh Mẹ là Nữ Vương Các Thánh Tông Đồ, là Mẹ Hội Thánh, là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc một cách hết sức đặc biệt. Vai trò “đồng công” ở đây không có nghĩa Mẹ ngang hàng với Chúa Giêsu, nhưng là sự cộng tác phi thường và duy nhất, bởi Mẹ đã chia sẻ cách mật thiết vào sứ mạng của Con Mẹ. Khi Đức Giêsu chấp nhận “vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá”, thì Mẹ Maria cũng đứng kề bên, hiệp thông, cảm nếm đến tận cùng nỗi đau khổ. Nơi chân thập giá, Mẹ hẳn không chỉ đau đớn về tình mẫu tử, mà còn dâng nỗi đau đó làm hi lễ cùng với hi lễ của Chúa Giêsu cho ơn cứu chuộc thế giới. Bởi thế, chỉ một lời xin vâng ngày truyền tin đã mở ra toàn bộ hành trình hi sinh của Mẹ, khiến Mẹ trở thành người luôn “đồng hành” với Con Mẹ trên con đường thánh giá, rồi sau đó, Mẹ tiếp tục hiện diện trong cộng đoàn các tín hữu sơ khai. Sự hiệp thông đó kéo dài đến muôn đời, trở thành mẫu gương rực rỡ cho chúng ta về đức tin, đức ái và lòng vâng phục thánh ý Thiên Chúa.

Nhìn lại cuộc đời mình, người Kitô hữu cũng được mời gọi sống tinh thần vâng phục cách quảng đại, noi gương Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Trong một thế giới đề cao ý chí cá nhân, tự do, khả năng độc lập, nhiều người cho rằng “vâng phục” là hèn kém, là đánh mất chính mình, là đối nghịch với nhân quyền, là bào mòn sức sáng tạo… Về phương diện thuần túy tâm lý hoặc triết học, điều đó có thể đúng. Nhưng trong đời sống đức tin, “vâng phục” có nghĩa là mở lòng mình cho sự tốt lành, cho chân lý và ân sủng của Chúa. Chính khi con người cúi xuống trước ý Chúa, người ấy lại được nâng lên với sự tự do thiêng liêng viên mãn, vì như Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo dạy, tự do chỉ đạt tới mức hoàn hảo khi nó quy hướng về điều thiện, về tình yêu, về Thiên Chúa (x. SGLHTCG, số 1733). Khi con người lạm dụng tự do, đi ngược lại ý Chúa, họ trở thành “nô lệ của tội lỗi”, trói buộc mình vào sự chết. Ngược lại, khi họ biết đón nhận thánh ý Chúa trong cuộc đời, họ bắt đầu kinh nghiệm một niềm vui sâu xa, vì “ý Chúa” luôn là chương trình tốt đẹp nhất dành cho con người.

Đức Maria là tấm gương cho chúng ta nhận thấy rằng vâng phục không phải là một sự miễn cưỡng. Mẹ không “bị ép” để mang thai Con Thiên Chúa; Mẹ được sứ thần “truyền tin” nhưng vẫn hoàn toàn có thể thưa “không” nếu Mẹ muốn. Thế nhưng Mẹ đã để cho đức tin và tình yêu dành cho Chúa bừng sáng, để Mẹ dứt khoát thưa “xin vâng”. Cũng vậy, nơi Đức Giêsu, ta thấy Người vốn dĩ là Thiên Chúa, Người có đầy đủ quyền năng để không phải hạ mình đến phận người. Nhưng Người đã tự do chọn con đường tự hủy, mặc lấy thân phận người phàm, trở nên giống chúng ta, gánh lấy khổ đau và tội lỗi chúng ta, hầu giải thoát chúng ta. Sự tự do ấy chính là biểu hiện rõ rệt nhất của tình yêu. Và Thiên Chúa đã yêu thế gian đến mức ban Con Một của Người. Con Một ấy lại yêu Chúa Cha và yêu nhân loại đến nỗi “vâng phục cho đến chết” để đem ơn cứu độ đến cho chúng ta. Quả vậy, chính nhờ sự vâng phục của Chúa Giêsu và của Mẹ Maria, nguồn ơn thánh tuôn trào, và bức tường ngăn cách giữa Thiên Chúa với con người đã được phá bỏ. Giờ đây, mỗi khi chúng ta cử hành Thánh Lễ, rước Mình và Máu Thánh Chúa, chúng ta thông hiệp sâu xa vào chính mầu nhiệm yêu thương ấy.

Trong bối cảnh hôm nay, có lẽ ta gặp không ít thách đố để sống “vâng phục trong đức tin”. Chúng ta dễ dàng chấp nhận vâng lời khi điều ấy mang lại lợi ích trước mắt, nhưng với những đòi hỏi của Tin Mừng, như phải sống công bình, thương yêu kẻ thù, chia sẻ của cải cho người nghèo, sống khiết tịnh, trung thành hôn nhân… nhiều lúc ta sẽ bị cám dỗ chối từ. Bản tính con người muốn sống dễ dãi, muốn tìm con đường thoải mái, ít hy sinh. Tuy nhiên, noi gương Mẹ Maria, chúng ta được mời gọi nhớ lại rằng con đường của Chúa luôn đòi hỏi chúng ta phải đặt mình trước thánh ý của Người, sẵn lòng để Chúa dẫn dắt, dù là bước đi ấy có vẻ khó khăn và phải trả giá. Như Mẹ đã từng để tất cả ý định riêng tư sang một bên, từ bỏ ngay cả ước nguyện thánh thiện là khấn giữ đồng trinh trong âm thầm để phụng sự Chúa, hầu dọn chỗ cho chương trình lớn lao của Chúa muốn Con Một Người nhập thể nhờ cung lòng Mẹ. Thì hôm nay, chúng ta cũng vậy, đôi khi Chúa mời gọi ta hy sinh một dự tính nào đó, thay đổi một lối sống nào đó, thậm chí bẻ lái cả tương lai của mình, để thay vào đó là thánh ý của Chúa dành cho ta. Và nếu ta can đảm thưa “xin vâng”, ta sẽ được nếm trải ơn bình an, niềm vui và sự thánh thiện sâu xa mà Chúa ban.

Bên cạnh đó, chúng ta cũng hãy tự hỏi: “Tôi đã sống đức tin như thế nào? Tôi có dám để Chúa đụng chạm và mời gọi tôi thay đổi thực sự không?” Nhiều khi chúng ta sợ rằng vâng phục Chúa sẽ khiến mình mất đi tự do, mất đi cá tính. Nhưng thật ra, vâng phục Chúa chính là bước vào con đường của sự thật, tình yêu và ơn giải thoát. Thiên Chúa không bao giờ hủy hoại bản sắc của chúng ta, trái lại, Người hoàn thiện chúng ta, giúp chúng ta đạt tới nhân vị tròn đầy, vì chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh của Người. Biết bao vị thánh nhân, khi hoán cải, đáp lại tiếng Chúa, đã trở thành khí cụ tuyệt vời, làm những việc phi thường cho Giáo Hội và thế giới. Sự “xin vâng” ấy cũng không nhất thiết xảy ra trong những biến cố quá to lớn; đôi khi, đó chỉ là những quyết định bé nhỏ hằng ngày: sẵn sàng tha thứ một người đã xúc phạm ta, sẵn sàng nhận lỗi và sửa đổi, sẵn sàng sống liêm khiết, nhường nhịn, hay dấn thân cho công lý và hòa bình. Bất cứ lúc nào và ở đâu, con người vâng phục thánh ý Chúa với tình mến, họ đều góp phần xây dựng nền văn minh tình thương. Cái “xin vâng” ấy, nếu được lặp lại mỗi ngày, dần dần hình thành một thói quen sống gắn bó với Chúa, giúp chúng ta nên thánh trong những trách vụ đời thường.

Chúng ta càng ngày càng cảm nghiệm rõ: “Chỉ có mình Thiên Chúa mới đủ sức lấp đầy cõi lòng con người.” Vì vậy, lời mời gọi vâng phục Chúa không phải là một áp đặt áp bức, nhưng là khởi đầu cho một hành trình giải thoát, một cuộc sống có ý nghĩa, có hạnh phúc đích thực. Nếu xưa, Chúa Giêsu đã cầu nguyện trước giờ khổ nạn: “Xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”, thì hôm nay, giữa biết bao ngã rẽ và cám dỗ, chúng ta cũng hãy học lấy sự phó dâng đó của Người, để cùng với Mẹ Maria, chúng ta can đảm cất tiếng: “Xin Chúa cứ thực hiện nơi con điều Chúa muốn.” Mỗi khi chúng ta thật lòng cất lời như thế, Thiên Chúa sẽ ban sức mạnh để ta chấp nhận “từ bỏ” và “tự hạ” mà thưa “xin vâng”, hầu mang lại lợi ích thiêng liêng cho bản thân, cho gia đình, cộng đoàn và xã hội.

Nhìn lên Mẹ Maria trong ngày Lễ Truyền Tin, chúng ta thấy Mẹ thật diễm phúc. Mẹ không chỉ diễm phúc vì được sứ thần chào “Đấng đầy ân sủng”, mà Mẹ còn diễm phúc vì hoàn toàn để Chúa Thánh Thần ngự xuống, biến đổi, và thao luyện Mẹ nên khí cụ đắc lực cho công trình cứu độ của Thiên Chúa. Mẹ diễm phúc vì đã đáp lại lời Chúa bằng một cung giọng đầy tin yêu: “Xin vâng.” Lời ấy mở ra niềm hy vọng, trao ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại. Và Mẹ còn diễm phúc khi đi trọn con đường khổ nạn của Chúa Giêsu, trở thành hình ảnh sống động của Giáo Hội, người môn đệ trung kiên, luôn gắn bó với Con của mình. Sự vâng phục ở đây không che khuất Mẹ, trái lại, đưa Mẹ đến đỉnh cao hiệp thông với Thiên Chúa. Giáo Hội gọi Mẹ là “đóa hoa đẹp nhất” trong vườn các thụ tạo. Hoa ấy nở rộ vì Mẹ đã hạ mình và để cho ơn Chúa triển nở tuyệt đối trong đời Mẹ.

Hôm nay, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa lời tạ ơn, vì qua Con Một của Người nhập thể từ cung lòng Đức Maria, nhân loại được bước vào kỷ nguyên cứu độ. Đồng thời, chúng ta hãy nài xin Chúa ban ơn giúp sức, để bắt chước thái độ vâng phục của Chúa Giêsu và của Mẹ Maria. Chúng ta xin Chúa trợ giúp để mình đủ can đảm, thành tâm cởi mở và yêu mến thánh ý Người; xin Chúa thanh luyện trái tim chúng ta, để mỗi giây phút, ta sẵn sàng thưa “xin vâng” với bất cứ điều gì Chúa muốn nơi ta, dù lớn lao hay bé mọn. Xin Mẹ Maria, người đã từng đón nhận sứ thần bằng niềm trinh khiết đơn sơ, cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta, để chúng ta cũng biết thưa “xin vâng” trong hành trình ơn gọi, trong lao động, trong các mối tương quan, trong mọi vất vả mưu sinh, hầu nên những khí cụ đắc lực để xây dựng Nước Thiên Chúa và lan tỏa tin mừng cứu độ cho anh chị em xung quanh.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, chúng con hết lòng cảm tạ Cha đã ban Con Một Cha làm người, qua cung lòng vẹn sạch của Đức Trinh Nữ Maria. Nhờ mầu nhiệm Nhập Thể, chúng con được đón nhận ơn cứu độ dồi dào, bởi Đấng vừa là Thiên Chúa thật, vừa là người thật. Xin cho chúng con biết mở lòng noi gương Con Một Cha và Mẹ Maria, để can đảm hiến dâng cuộc đời mình trong sự vâng phục, nhờ đó cộng tác cách thiết thực vào công trình cứu độ mà Cha đang thực hiện trong thế giới hôm nay. Nguyện xin Chúa Thánh Thần ngự đến, ban ơn soi sáng và ban cho chúng con sức mạnh, để chúng con luôn cất tiếng “xin vâng”, hầu mỗi ngày một biến đổi sâu xa hơn trong tình yêu của Đấng Cứu Thế. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.

Lm. Anmai, CSsR

KHIÊM NHƯỜNG ĐỂ ĐÓN NHẬN Ý CHÚA
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ thân mến, trong đời sống thường ngày, không ai có thể tự mình làm mọi sự. Thường thì người đứng đầu một tổ chức, một công ty hay một gia đình đều cần có trợ lý hoặc những người cộng sự để giúp họ lo liệu công việc. Nhưng để công việc được tiến hành êm thấm, người trợ lý phải có một đức tính rất quan trọng, đó là biết lắng nghe và sẵn sàng thi hành ý muốn của chủ. Nếu người trợ lý quá tự kiêu, họ sẽ dễ dàng đưa ý riêng của mình lấn át ý của chủ, thậm chí phá hủy những dự án quan trọng. Còn nếu có lòng khiêm nhường, người trợ lý ấy sẽ trung thành cộng tác, chu toàn nhiệm vụ được giao, và mọi công việc sẽ thuận lợi theo đúng ý muốn của chủ. Hình ảnh này có thể giúp chúng ta cảm nhận phần nào ý nghĩa của việc cộng tác với Thiên Chúa: chính chúng ta cũng được mời gọi trở nên “trợ lý” của Ngài trong chương trình yêu thương và cứu độ, với điều kiện phải luôn khiêm nhường, sẵn sàng nói lời “xin vâng” với thánh ý Ngài.

Hôm nay, Giáo Hội mừng trọng thể Lễ Truyền Tin – biến cố cao cả đánh dấu Ngôi Hai Thiên Chúa bắt đầu nhập thể, làm người ở giữa chúng ta. Trong biến cố này, chúng ta thấy xuất hiện hai nhân vật chính: sứ thần Gáp-ri-en và Trinh Nữ Maria. Sứ thần là vị đại diện thay mặt Thiên Chúa, mang sứ điệp báo tin Con Thiên Chúa sẽ đến trần gian; và Mẹ Maria là thụ tạo khiêm nhường đón nhận tin vui diệu kỳ, cưu mang Ngôi Lời trong cung lòng trinh khiết của mình. Từ giây phút Mẹ thưa tiếng “xin vâng”, lịch sử cứu độ bước sang một trang hoàn toàn mới mẻ, trang mà ơn phúc được chan hòa khắp nhân loại. Chính vì Mẹ đã tỏ lòng vâng phục trọn hảo, chương trình yêu thương của Thiên Chúa được hiện thực hóa ngay trong cung lòng người nữ tỳ bé nhỏ.

Thưa anh chị em, bản chất của sứ điệp Lễ Truyền Tin là việc Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Đây là một điều rất “sốc” đối với Đức Maria, vì Mẹ đã khấn giữ mình đồng trinh, nay lại phải đón nhận mệnh lệnh cao cả: cưu mang và hạ sinh Đấng Cứu Thế. Nhưng cũng là điều hết sức vinh dự cho Mẹ, bởi lẽ giữa muôn ngàn phụ nữ, Thiên Chúa đã “đoái thương phận nữ tỳ” (x. Lc 1,48) này, và cho Mẹ góp phần không thể thiếu vào công trình cứu độ. Có lẽ thoạt đầu, tâm hồn Mẹ xao xuyến và bối rối, vì Mẹ vừa thấy sứ thần tiến đến với lời chào: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà” (x. Lc 1,28). Sứ thần lại loan báo Mẹ sẽ mang thai Con Đấng Tối Cao. Trước viễn cảnh ấy, Mẹ lo lắng tự hỏi: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” (Lc 1,34). Thế nhưng, sau khi nghe sứ thần giải thích rằng Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Mẹ, và “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”, Mẹ đã mau chóng xin vâng: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38).

Chính nhờ thái độ khiêm nhường, sẵn sàng hợp tác với ý Chúa mà Mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa, đồng thời cũng là Mẹ của toàn thể nhân loại. Cùng lúc, Mẹ xóa đi sự bất tuân khi xưa của Evà, bởi Evà cũ đã khởi nguồn tội lỗi qua sự bất tuân nơi vườn Địa Đàng, thì giờ đây, nơi Mẹ Maria, ân sủng được khôi phục nhờ thái độ vâng lời tuyệt đối. Từ hôm đó, Ngôi Lời hiện diện nơi cung lòng Mẹ, “ở giữa chúng ta” (Ga 1,14). Cũng từ giây phút ấy, Mẹ dọn mình trở nên Nhà Tạm đầu tiên, để chính Thiên Chúa làm người cư ngụ và bắt đầu sứ mạng cứu độ nhân sinh.

Nếu nhìn sâu hơn, ta sẽ thấy lời “xin vâng” của Mẹ Maria chính là một chọn lựa dứt khoát, vừa biểu lộ niềm tin và vừa cho thấy nhân đức khiêm nhường thẳm sâu Mẹ đã học được từ chính gia đình mình. Là một người nữ đơn sơ vùng quê Na-da-rét, Mẹ chẳng có gì để hãnh diện trước thế gian. Thế nhưng, chính trong sự bé mọn khiêm hạ đó, Thiên Chúa đã thể hiện sức mạnh và tỏ bày quyền năng lớn lao. Về sau, khi đối diện với biến cố thăm viếng người chị họ Ê-li-sa-bét, Mẹ đã cất lên lời ca Magnificat (Lc 1,46-55), ngợi khen lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Mẹ cho thấy rằng tất cả vinh quang thuộc về Chúa, chứ không phải của riêng Mẹ. Càng được Chúa ban cho những đặc ân, Mẹ càng khiêm tốn, càng suy gẫm trong lòng mọi điều tốt đẹp mà Chúa thực hiện.

Ngày hôm nay, phụng vụ Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệm trọng đại này để học nơi Chúa Giêsu và Mẹ Maria những bài học thiết yếu. Thứ nhất, chúng ta thấy Thiên Chúa vô cùng yêu thương nhân loại tội lỗi. Ngài chọn cách đích thân đến với chúng ta qua Con Một dấu yêu, để diễn tả tình yêu khôn sánh của Ngài. Việc Nhập Thể của Con Thiên Chúa làm nổi bật đức khiêm nhường tuyệt đỉnh: Đức Giêsu – Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, ngang hàng với Chúa Cha – đã chấp nhận hạ mình, trở thành một trẻ thơ mang thân phận mỏng giòn như bất cứ phàm nhân nào khác. Ai có thể hình dung nỗi sự khác biệt thẳm sâu giữa cõi vĩnh hằng và giới hạn của kiếp người, thế mà Ngài vẫn đi vào trần gian, vào trong cung lòng một thụ tạo đơn sơ, chỉ vì muốn cứu rỗi chúng ta? Điều này cho thấy yêu thương đòi hỏi khiêm nhường, và Thiên Chúa đã nêu gương trổi vượt về sự khiêm nhường ấy.

Thứ hai, nơi Mẹ Maria, chúng ta học được bài học vâng phục tuyệt vời. Mẹ chỉ có thể nói “xin vâng” với kế hoạch nhiệm mầu của Chúa khi Mẹ đủ tin tưởng tuyệt đối và sẵn sàng để ý Chúa dẫn dắt. Một khi biết mình nhỏ bé, một khi phó thác tất cả cho Chúa, con người sẽ không còn lấy ý riêng làm trung tâm, mà luôn ý thức rằng Thánh Ý Chúa mới là cao cả nhất. Thật ra, Mẹ không phải là người duy nhất trong lịch sử được mời gọi cộng tác vào chương trình cứu độ, nhưng Mẹ đã trở nên một tấm gương chuẩn mực cho hết thảy những ai khao khát thuộc trọn về Chúa.

Thế nhưng, sống trong xã hội hôm nay, tinh thần khiêm nhường trở thành một thách đố vô cùng lớn lao cho mỗi chúng ta. Người ta hay bàn luận về việc bỏ bớt vinh hoa, chấp nhận thiệt thòi, sống bác ái, cầu nguyện… Những điều ấy nói thì dễ, nghe thì hay, nhưng thực hành mới gian nan. Đặc biệt, khi đụng chạm đến cái tôi, khi danh dự bị thử thách, khi lợi ích cá nhân bị xâm phạm, chúng ta thường thấy mình có khuynh hướng “nổi khùng” và không còn giữ được sự khiêm nhượng. Vậy mới biết, sống khiêm nhường đích thực không chỉ là vài ba câu nói, mà còn phải trả giá bằng chính bản thân và ý riêng của mình. Đâu đó, có những anh chị em có khả năng dấn bước theo Chúa, thậm chí hy sinh nhiều thứ như tiền tài, thú vui, địa vị, nhưng rốt cuộc vẫn chẳng thể bỏ đi cái tôi. Cái tôi ấy, nếu không được thanh luyện, sẽ đánh bại mọi ý định tốt đẹp, biến người ta thành kẻ tự phụ, chỉ thích ý riêng, không đón nhận nổi ý Chúa. Nói cách khác, một khi chưa đặt mình vào chỗ rốt hết, chưa coi ý Chúa là trên hết, chưa chấp nhận “mất” mình đi, chúng ta chẳng thể nào thật sự “xin vâng”.

Mừng Lễ Truyền Tin, chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài đã bày tỏ tình yêu cao vời khôn sánh qua việc Nhập Thể của Con Một. Đây không chỉ là một sự kiện xưa cũ, mà mỗi lần nhắc lại là mỗi lần ta được mời gọi mở lòng đón nhận Chúa Giêsu. Khi ta lắng nghe Lời Chúa, tham dự Thánh Lễ, nhất là khi rước Thánh Thể, ta cũng đón nhận chính Ngôi Lời hằng sống vào tâm hồn. Mong sao mỗi ngày, ta đều thưa “xin vâng” với những gì Chúa muốn cho cuộc đời ta, dù đôi khi điều đó mâu thuẫn với mong đợi của ta, hoặc đòi ta phải từ bỏ đôi chút những tính toán riêng tư. Nếu ta biết ngước nhìn gương Mẹ, cậy nhờ Mẹ chuyển cầu, ta sẽ tìm được sức mạnh và niềm an ủi to lớn, để cũng có thể can đảm thưa: “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy thực hiện nơi con ý Ngài”.

Qua Lễ Truyền Tin, Giáo Hội còn gửi đến chúng ta một sứ điệp nữa: hãy cùng Mẹ Maria tiến bước trên con đường khiêm tốn và vâng phục này, để thánh ý Thiên Chúa được thực hiện cách trọn vẹn, không chỉ trong cuộc đời riêng mình, mà còn nơi gia đình, cộng đoàn và xã hội. Có thể nói, không có đức khiêm nhường, chúng ta sẽ rất khó hoặc không thể xây dựng được các nhân đức khác, bởi mọi nhân đức đều cần một nền tảng vững chắc là sự ý thức mình chỉ là thụ tạo trước mặt Đấng Toàn Năng. Thiên Chúa “hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1,52). Dựa vào lời ấy, ta tin chắc rằng ai càng hạ mình trước Chúa, người ấy càng được Chúa yêu thương ban muôn ơn để sống xứng hợp với thánh ý Ngài.

Thực tế cho thấy, ngay trong môi trường xung quanh, nếu biết khiêm tốn, ta sẽ tránh được nhiều xung đột, dẹp bớt được những va chạm vì tranh giành địa vị. Nếu biết khiêm tốn, ta sẽ dễ dàng lắng nghe và trao đổi, nhờ đó mọi tương quan được cải thiện. Một người kiêu ngạo luôn muốn gạt ý của người khác sang một bên, bất chấp lợi ích chung. Nhưng người khiêm nhường lại muốn phục vụ, sẵn sàng chia sẻ gánh nặng, và nâng đỡ tha nhân trong tình thương chân thành. Trong bầu khí yêu thương, người khiêm tốn có thể hy sinh danh dự cá nhân để người khác được trọng vọng hơn, như cách Đức Giêsu đã tự nguyện hi sinh cho chúng ta. Và người khiêm tốn sẽ dễ nên giống Mẹ Maria, luôn “cất giữ mọi sự và suy niệm trong lòng” (Lc 2,19), thay vì vội vàng khoe khoang hay đòi phần thưởng.

Nhìn lại biến cố “Lời Nhập Thể”, ta chiêm ngắm Chúa Giêsu Con Thiên Chúa mang lấy xác phàm giữa thế gian. Đó là đỉnh cao của sự xót thương: Thiên Chúa yêu đến cùng, không nề tủi nhục, để nâng con người sa ngã lên tầm cao mới. Cũng vậy, chúng ta cũng được mời gọi uốn lòng mình nên giống Chúa, sống xót thương như Chúa. Khi khiêm tốn, ta sẽ học được cách nhìn tha nhân bằng ánh mắt bao dung, vì ta ý thức chính mình cũng mỏng dòn và đáng thương biết bao. Ta sẽ nhớ rằng Chúa đã cúi xuống với ta trước, nên ta cũng phải cúi xuống với anh chị em, nhất là những ai yếu đuối, bất hạnh, nhờ thế loan truyền tình Chúa cho nhân loại.

Quả thật, lời “xin vâng” đầu tiên của Mẹ Maria ở Lễ Truyền Tin đã mở ra hành trình tiếp nối của nhiều lần “xin vâng” khác. Từ khi ẵm Chúa Giêsu thơ bé cho đến những chặng đường dài của sứ vụ công khai, rồi đứng dưới chân Thập Giá, Mẹ vẫn không thôi kiên vững trong đức tin và phó thác trọn vẹn. Cuộc đời Mẹ thành bài ca Magnificat sống động dâng lên Chúa không ngừng. Ngày nay, Giáo Hội nêu Mẹ như mẫu gương tuyệt hảo cho những tâm hồn ước ao thuộc chọn về Chúa. Mẹ là Nữ Tỳ nhưng được tôn vinh làm Nữ Vương; Mẹ là Mẹ của Thiên Chúa và cũng là Mẹ của chúng ta. Đó là lời mời gọi đầy an ủi: Chúng ta cũng hãy để Chúa đoái nhìn, hãy từ bỏ lòng kiêu ngạo, gạt phăng cái tôi cản trở ơn cứu độ, tập khiêm nhường để nghe và hành động theo ý Chúa.

Lễ Truyền Tin hằng năm là dịp để khơi lại trong tim ta niềm xác tín rằng Chúa không ngừng “truyền tin” cho chúng ta qua nhiều hình thức: qua Lời Kinh Thánh, qua ơn soi sáng, qua các biến cố đời thường, nhất là qua Thánh Lễ và Bí tích Thánh Thể. Chúa luôn ngỏ ý muốn gợi mở ta sống đẹp lòng Ngài. Câu hỏi còn lại là: Liệu ta có đủ can đảm và khiêm nhường để cất tiếng “xin vâng” với Chúa, ngay cả khi điều Chúa muốn đi ngược lại với tham vọng, sở thích hay toan tính của ta? Chỉ khi biết can đảm thưa với Chúa: “Này con sẵn sàng”, ta mới thật sự nên cộng sự viên đắc lực trong công cuộc lan tỏa Tin Mừng, sống xót thương với tha nhân.

Giờ đây, trong ánh sáng êm đềm của mầu nhiệm Nhập Thể, mỗi người chúng ta hãy thầm cầu nguyện cho có được tấm lòng giống như Mẹ Maria – một lòng khiêm nhường, sẵn sàng phó thác, để thánh ý Chúa được thực hiện nơi đời mình. Nếu còn đó những tham sân si, những kiêu ngạo và ích kỷ, xin Chúa giúp ta từng ngày “lột bỏ con người cũ” (x. Cl 3,9) và “mặc lấy Chúa Kitô” (Gl 3,27). Có như thế, ta mới có thể thuộc trọn về Ngài.

Chớ gì Mùa Chay thánh này và niềm vui Lễ Truyền Tin nhắc nhở ta về lòng từ bi vô biên của Chúa, đồng thời mời gọi ta thực hành bác ái chân thành, xin lỗi những người ta đã vô tình hay hữu ý làm tổn thương, và sống cảm thông với nỗi khổ đau của người khác. Mỗi hành vi khiêm nhường, mỗi cử chỉ xót thương ta thực hiện cho tha nhân sẽ trở nên những lời thưa “xin vâng” cụ thể của ta trước mặt Chúa. Bởi lẽ, Chúa vẫn đang tiếp tục nói với ta qua muôn vàn sứ thần – đó có thể là những biến cố bất ngờ, những người khốn khó ta gặp trên đường, hay cả những trận “giông bão” trong đời. Nguyện xin Mẹ Maria dạy ta nghệ thuật “xin vâng”, giúp ta can đảm làm theo điều Chúa muốn, để từ đó, Chúa Giêsu có thể tiếp tục “nhập thể” vào thế giới ngày nay qua chính chứng tá đời sống chúng ta.

Lạy Thiên Chúa là Cha rất nhân từ, chúng con chúc tụng và tạ ơn Chúa vì đã ban Con Một làm Đấng Cứu Độ, để tình yêu Chúa bừng sáng khắp cõi trần. Cảm tạ Chúa đã soi dẫn Trinh Nữ Maria, để Mẹ sẵn sàng gạt bỏ ý riêng và cất tiếng “xin vâng” cách mau mắn, khiêm nhường. Xin cho chúng con học được từ Mẹ tâm tình ấy, để chúng con cũng có thể quảng đại thưa “xin vâng” với mọi dự phóng Chúa dành cho mỗi người, nhờ đó thánh ý Chúa được thể hiện trên trần gian. Lạy Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng con, xin tiếp tục đồng hành với chúng con trong kiếp lữ hành, và cầu bầu cho chúng con luôn nỗ lực hoán cải để xứng đáng với ơn gọi làm con cái Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.

Lm. Anmai, CSsR

XIN VÂNG Ý CHÚA

Đứng trước kho tàng Lời Chúa, chúng ta nhận ra có những đoạn Kinh Thánh được mệnh danh là “nền tảng” cho toàn bộ mầu nhiệm đức tin Kitô giáo, trong đó, đoạn Tin Mừng theo thánh Luca về cuộc Truyền Tin (Lc 1,26-38) thật sự là một ngọn hải đăng chói sáng. Nơi đây, chúng ta được chiêm ngắm Đức Maria, người nữ đơn sơ miền Nadarét, tiếp nhận sứ điệp cao cả từ sứ thần Chúa và cất tiếng “Xin Vâng” trước chương trình diệu kỳ của Thiên Chúa. Nhiều thế kỷ trôi qua, biết bao thế hệ các nhà nghệ sĩ, hội họa, âm nhạc và văn chương đã cố gắng tái hiện lại khoảnh khắc thiêng liêng ấy, nhưng tất cả tác phẩm nghệ thuật chỉ có thể phác thảo đôi nét bề ngoài mà không thể chạm tới chiều sâu khôn lường của biến cố. Chính trong thời khắc Mẹ Maria cầu nguyện, cõi nhân gian bừng lên hy vọng, “mầu nhiệm Nhập Thể” bắt đầu, đánh dấu một bước ngoặt lớn lao trong dòng lịch sử: Con Thiên Chúa làm người ở giữa chúng ta.

Mầu nhiệm này bao gồm nhiều khía cạnh, mà qua đó, chúng ta chạm đến cốt lõi của ơn cứu độ. Trước hết, ta nhận thấy ý muốn tha thiết của Thiên Chúa trong việc thông ban chính bản thân Ngài cho nhân loại. Lời của thánh Gioan vang vọng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Đây là lẽ thật chủ chốt mạc khải tình yêu khôn dò của Chúa dành cho ta. Tình yêu ấy không phải một lý thuyết rỗng tuếch, nhưng được hiện thực hóa qua việc Thiên Chúa “ban Con Một”, nghĩa là tự trao hiến chính mình. Chính vì thế, không sai khi nói mầu nhiệm Nhập Thể khởi đi từ sự nồng nàn của con tim Thiên Chúa, Đấng không nỡ để con người phải bơ vơ trong cảnh tội lỗi và tuyệt vọng. Người Con được ban tặng ấy chính là Đức Kitô, Chúa chúng ta.

Chúng ta tiếp tục đào sâu vào khía cạnh thứ hai của mầu nhiệm này, đó là tình yêu vĩnh cửu vô biên mà Chúa Giêsu Kitô dâng lên Chúa Cha, đồng thời Ngài cũng dành cho mỗi người chúng ta. Khi chiêm ngắm hình ảnh Con Chúa trút bỏ vinh quang, mặc lấy phận người, chúng ta chạm tới sự tự hạ tuyệt đối. Thư thánh Phaolô gửi tín hữu Philípphê đã diễn tả: “Đức Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã không nghĩ phải duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, trái lại, Ngài đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân” (Pl 2,6-7). Đây không phải “bi kịch” mà là “đỉnh cao” của tình yêu tự hiến, để đến mức Chúa Giêsu đã quả quyết: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Chính tình yêu thúc bách ấy khiến Chúa Giêsu thưa lên: “Này con đây, con xin đến để thi hành thánh ý Cha” (Dt 10,7). Ngài xác nhận sứ mạng cứu độ loài người bằng tất cả đam mê của trái tim yêu thương, đến nỗi công khai nói: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34). Từ lời tuyên bố ấy, chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha tới mức coi việc thi hành Ý Cha là nguồn sống, là hạnh phúc lớn nhất của cuộc đời Ngài.

Kế đến, chúng ta chuyển sang khía cạnh thứ ba, vốn xoay quanh biến cố Truyền Tin cho Đức Maria, thời điểm Thiên Chúa sai Sứ thần Gáprien đến một thiếu nữ để bắt đầu lịch sử mới. Thư gửi tín hữu Galát nói: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình đến, sinh làm con một người nữ” (Gl 4,4). “Người nữ” ấy chính là Maria, một con người hoàn toàn “đặc biệt” trong chương trình của Thiên Chúa. Lời Sứ thần: “Chúa Thánh Thần sẽ xuống trên bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao phủ bà” (Lc 1,35) cho thấy biến cố kỳ diệu: Mẹ đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa, cưu mang “Hòm Bia Giao Ước” ngay trong cung lòng mình. Khi nghe sứ điệp này, Đức Maria đã thưa với sứ thần một câu hỏi duy nhất: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào được, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” (Lc 1,34). Đó không phải sự hoài nghi, mà là thái độ tìm hiểu, muốn biết rõ ý Chúa, tương tự cách xưa kia vua Đavít tự hỏi: “Làm sao Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa có thể đến với tôi?” (x. 2 Sm 6,9). Maria không nghi ngờ, nhưng ngạc nhiên trước biến cố quá lạ lùng.

Ngay khi được sứ thần giải thích, Mẹ Maria đã không hỏi thêm, không tìm cách né tránh, mà lập tức dâng trọn thánh ý: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng như lời Ngài truyền” (Lc 1,38). Sự “xin vâng” này đã làm đảo lộn cả dòng lịch sử nhân loại, khiến Lời Chúa trở thành nhục thể. Bởi vì, như bà Êlisabét sau này thốt lên: “Phúc cho Em vì đã tin rằng Lời Chúa phán cùng Em sẽ được thực hiện” (Lc 1,45). Xưa kia, khi Chúa Giêsu giảng dạy, có người ca ngợi Mẹ Ngài, và Chúa Giêsu khẳng định: “Mẹ Ta và anh em Ta chính là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thi hành” (Lc 8,21). Như thế, Mẹ Maria được tôn vinh không chỉ vì là Mẹ theo huyết nhục, mà còn bởi Mẹ đã sống Lời Chúa bằng niềm tin, lòng phó thác tuyệt đối. Từ giây phút Truyền Tin, Mẹ trở thành người cưu mang Lời Hứa, cưu mang chính Con Đấng Tối Cao (x. Lc 1,35). Mầu nhiệm này làm bật lên niềm tin can trường của Mẹ, bởi Mẹ đứng trước một tương lai mịt mờ, đầy hiểm nguy. Mẹ có thể bị người đời hiểu lầm, thậm chí đối diện với nguy cơ bị ném đá theo phong tục Do Thái dành cho người “mang thai ngoài hôn nhân”. Ấy vậy, Mẹ vẫn một lòng tín thác, để Lời Chúa thấm sâu và lớn lên trong Mẹ, hệt như hạt giống gieo vào mảnh đất màu mỡ.

Sau cùng, chúng ta đi vào khía cạnh thứ tư, mầu nhiệm này liên quan mật thiết tới đời sống chúng ta hôm nay. Khi trở thành môn đệ Chúa Giêsu, mỗi người phải chuẩn bị để “tham dự” vào chính Mầu Nhiệm Nhập Thể và công trình cứu chuộc của Chúa. Đức Giêsu đã nói rõ với những ai muốn theo Ngài: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9,23-24). Đó là điều kiện khó khăn vì chúng ta, bởi bản năng, thường muốn nắm giữ an toàn, quyền lợi, danh vọng của bản thân. Chúa Giêsu cho ta thấy con đường “từ bỏ mình” mới chính là lối mở vào Nước Trời. Từ bỏ ở đây không phải hủy hoại, nhưng là để cho “cái tôi” ích kỷ được biến đổi, để chỉ còn lại tình yêu bao la dành cho Thiên Chúa và tha nhân. Thánh Phaolô từng gọi đó là “sự điên rồ của thập giá” (x. 1 Cr 1,18) – bởi vì đối với người không tin, việc hy sinh quyền lợi mình vì Thiên Chúa và người khác nghe giống như một hành động vô nghĩa, nhưng với người tin, đó chính là lối đi duy nhất để đạt tới sự sống vĩnh cửu.

Ở đây, Đức Maria vẫn là tấm gương chói lọi. Suốt hành trình dương thế, Mẹ luôn nêu gương về lòng tin và phó thác. Từ lúc Truyền Tin đến khi hạ sinh Con Chúa nơi hang Bêlem nghèo nàn, từ hành trình trốn sang Ai Cập cho đến những tháng ngày khó nghèo ở Nadarét, cho tới đỉnh điểm là khi đứng dưới chân thập giá Calvariô, chứng kiến Con yêu bị hành hình tủi nhục, Mẹ vẫn một dạ son sắt cậy trông. Sự cảm nhận “nỗi đau” của Mẹ là không thể diễn tả bằng lời, nhưng qua mọi đau khổ, Mẹ vẫn vững niềm cậy tin, vì Mẹ biết ý Chúa luôn tốt lành và Chúa không bao giờ bỏ rơi người Ngài yêu.

Đây là minh chứng hùng hồn: niềm tin của Mẹ không bao giờ là mù quáng. Mẹ hiểu rõ, suy đi nghĩ lại mọi biến cố trong lòng. Niềm tin của Mẹ có chiều sâu, có sự đồng hành của ơn Chúa, bởi Mẹ đặt trọn con tim vào “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1,49). Đó là lý do Mẹ hát lên bài ca Tạ ơn (Magnificat) mà muôn thế hệ vẫn lặp lại, như một lời tuyên xưng: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1,52).

Trong bối cảnh cuộc sống hôm nay, chúng ta đối diện vô vàn thách đố. Từ nguy cơ chiến tranh vũ khí hủy diệt, biến đổi khí hậu, đói kém, cho đến những bất công xã hội, thiên tai, dịch bệnh… Tâm trí con người không khỏi hoang mang, sợ hãi, bấp bênh trước tương lai. Ta có thể tự hỏi: “Làm sao tôi có thể vững vàng tin tưởng vào Chúa, khi xung quanh đầy dẫy bóng tối và bất trắc?” Câu trả lời tìm thấy nơi Mẹ Maria: Hãy nhìn lại khoảnh khắc Truyền Tin, giữa bao nghịch cảnh có thể ập đến, Mẹ vẫn “xin vâng” và mạnh dạn bước vào hành trình. Mẹ không đòi hỏi Chúa cho biết hết mọi chi tiết tương lai, cũng không khước từ vì sợ hãi hay tính toán. Mẹ chỉ “xin” được hiểu đúng thánh ý để thi hành. Như thế, tin tưởng Thiên Chúa nghĩa là dám phó thác, để Ngài làm chủ cuộc đời ta. Một khi tình yêu Chúa bao trùm, ta sẽ có được sức mạnh nội tâm phi thường, nhờ đó vượt qua mọi sóng gió cuộc đời.

Đặc biệt, mầu nhiệm Đức Maria cưu mang Chúa Giêsu rồi sinh hạ Ngài ở Bêlem lại mở ra cho ta bài học về sự “rộng lượng” dâng hiến tất cả. Mẹ sẵn sàng để Chúa “dẫn” Mẹ đến những vùng đất xa lạ, từ Ai Cập cho tới những nẻo đường lầm than. Mẹ chấp nhận những thiếu thốn vật chất lẫn tinh thần. Chẳng phải Mẹ đã sinh Chúa trong máng cỏ nghèo hèn, khiến Chúa Giêsu “không có chỗ tựa đầu” (x. Lc 9,58) suốt hành trình sứ vụ hay sao? Tất cả những điều này cho thấy tinh thần “xin vâng” của Mẹ không chỉ dừng ở lời nói, mà là một cam kết “liều mình” cách triệt để, để Lời Chúa được thực hiện.

Khi chúng ta chiêm ngưỡng Mẹ như vậy, tâm hồn ta được khích lệ để dâng lên Chúa cái “xin vâng” của chính mình. Bởi lẽ, như Lời Chúa, ta cũng nhận được những lời mời gọi, có khi rất âm thầm, có khi rất rõ ràng. Những lời mời gọi ấy có thể là sống thánh thiện trong bậc hôn nhân, chu toàn bổn phận gia đình; có khi là can đảm hiến dâng đời mình trong ơn gọi tu trì; có khi chỉ đơn giản là dám hy sinh, tha thứ và yêu mến giữa một môi trường bon chen, ganh tỵ. Cứ mỗi lần Chúa tỏ bày ý muốn của Ngài, chúng ta đứng trước sự lựa chọn: hoặc là nói “xin vâng”, hoặc là quay lưng, hay dậm chân tại chỗ với đủ thứ lý do biện hộ. Chớ gì chúng ta theo gương Mẹ Maria, yêu mến Lời Chúa hơn bất cứ điều gì, để bừng lên câu đáp: “Con thích làm theo Thánh Ý Ngài, và ấp ủ luật Ngài trong lòng” (x. Tv 40,9).

Quả thế, Đức Maria đã đi đến cùng với sự phó thác, cho nên Mẹ mới có đủ nghị lực để đứng dưới chân thập giá, chứng kiến Con Mẹ hiến dâng mạng sống như Chiên hiền lành. Ở đỉnh cao ấy, nỗi đau của Mẹ chẳng ai hiểu thấu. Nhưng Mẹ vẫn gắn bó với Chúa, vẫn tin tưởng rằng Con của Mẹ sẽ phục sinh, và chương trình cứu độ của Cha trên trời sẽ thành toàn. Bằng chứng là Mẹ hiện diện giữa cộng đoàn tín hữu thời sơ khai, chờ đợi Chúa Thánh Thần đến (x. Cv 1,14). Thì hôm nay, Mẹ cũng đồng hành với Hội Thánh, với từng người chúng ta, dạy chúng ta biết “làm tất cả những gì Ngài bảo” (x. Ga 2,5) như lời Mẹ nhắn nhủ ở tiệc cưới Cana.

Chúng ta càng vững tin rằng Mẹ là Mẹ ta, Mẹ đã nhận lời phó thác nên chắc chắn Mẹ không thể từ chối đứa con nào chạy đến Mẹ xin bầu cử. Lời kinh “Kính Mừng Maria đầy ơn phúc” chúng ta đọc mỗi ngày chính là nối dài lời chào của sứ thần Gáprien. Mỗi khi thưa lên “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con…”, chúng ta khẳng định Đức Maria ở cận kề, giúp chúng ta đi vào mầu nhiệm yêu thương của Chúa. Đừng để sợ hãi cản lối, đừng để những toan tính cá nhân ngăn chặn tiếng gọi “xin vâng”. Thiên Chúa luôn hành động trong âm thầm và chờ câu trả lời của ta.

Vậy hôm nay, noi gương Mẹ Maria, ta được mời gọi để một lần nữa lặp lại cách thiết tha: “Này con đây, con xin đến để thi hành ý Cha”. Chúng ta dâng lên Chúa trọn vẹn hiện tại, tương lai, những khát khao lẫn lo toan, để Ngài tự do sắp đặt. Có thể đường đời ta đi cũng gập ghềnh, có thể ta sẽ phải trải qua thăng trầm, đau khổ. Nhưng nếu biết kết hợp với Thánh Ý Chúa, cuộc đời chúng ta sẽ gặt hái nhiều hoa trái trong bình an. Và ta sẽ nhận ra mình không đơn độc, vì Mẹ Maria luôn đồng hành, Mẹ đã đi trước chúng ta trên chính con đường đó. Đôi chân Mẹ đi qua hang Bêlem, đi qua lối mòn Ai Cập, đi trên những năm tháng lặng lẽ ở Nadarét, và sau cùng lên tận đỉnh đồi Canvê, vẫn một lòng tin yêu, chưa từng thoái lui.

Chính vì thế, mầu nhiệm Truyền Tin không còn là một sự kiện cô lập trong quá khứ, mà đang vang vọng giữa đời chúng ta. Mẹ Maria dạy ta biết: “Khi Chúa ngỏ lời, hãy mở lòng đón nhận”, và Mẹ khẳng định: “Hãy làm tất cả những gì Ngài bảo”. Không phải vì Chúa muốn tỏ quyền, hay Chúa áp đặt; nhưng vì Chúa biết con đường nào tốt nhất cho ta. Nếu Đức Maria, một thôn nữ nhỏ bé, đã đủ can đảm để đặt tất cả cuộc đời Mẹ vào lời hứa của Thiên Chúa, thì tại sao chúng ta không thử phó thác như Mẹ?

Hãy cùng nhau nhìn lại những biến cố lớn nhỏ trong đời. Có những lúc Chúa đã gõ cửa, gợi ý chúng ta thực hiện một nghĩa cử yêu thương, một sự tha thứ, một hy sinh. Đừng ngại đáp “vâng” dù có thể mình cảm thấy thật nhỏ bé, vô dụng. Bởi Thiên Chúa không chê sự giới hạn của con người, Ngài chỉ chờ đợi lòng thành và sự khiêm nhu. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói: “Chúa cần tình yêu chứ không cần kỳ công”. Mẹ Maria quả là mẫu gương thuyết phục cho chân lý này: Mẹ chẳng làm “việc phi thường” trước mặt thiên hạ, nhưng Mẹ đã thực hiện hành vi phi thường nhất: chấp nhận Lời Chúa trong sự đơn sơ của đức tin.

Chúng ta đừng quên rằng “một tiếng vâng” của Mẹ đã mở đường cho Con Thiên Chúa nhập thể, chính Ngôi Hai đến làm bạn với nhân loại, chia sẻ phận người, trở nên Emmanuen – “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Và cũng chính nhờ tiếng vâng liên lỉ của Mẹ, ơn cứu độ được triển nở qua suốt dặm dài lịch sử. Mỗi “tiếng vâng” của con người hôm nay, dù âm thầm, nhỏ nhoi, nhưng khi gắn kết với “tiếng vâng” của Mẹ, cũng có sức biến đổi. Chúng ta có thể góp phần xoa dịu khổ đau, xây dựng sự công bằng, gieo rắc bình an, vì chúng ta đang để cho Chúa hoạt động qua mình.

Đứng trước “mầu nhiệm bốn chiều” ấy: Tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại, tình yêu cứu độ của Chúa Giêsu, sự đồng công cộng tác của Mẹ Maria, và lời mời gọi dành cho mỗi chúng ta, ta càng nhận ra niềm hy vọng lớn lao ẩn chứa. Dù hoàn cảnh chung quanh có bất an hay hỗn loạn, chúng ta vẫn có thể an lòng vì “niềm hy vọng không làm chúng ta thất vọng” (x. Rm 5,5). Càng như Mẹ Maria, lặng lẽ suy niệm và khắc ghi Lời Chúa, càng như Chúa Giêsu, vâng phục Ý Cha đến hiến mạng, chúng ta càng tiến sâu vào niềm vui đích thực.

Ước mong sao trong từng nhịp sống, ta luôn nhớ lời Mẹ: “Đừng sợ”, “Hãy làm tất cả những gì Ngài bảo”. Chính niềm tin mạnh mẽ vào Chúa sẽ giải thoát ta khỏi sợ hãi, mở ra cho ta chân trời hạnh phúc, dẫu có những thử thách. Hãy đặt tất cả cho Chúa, để Chúa Thánh Thần tác động, từ những điều bình dị trong cuộc sống thường ngày. Lúc ấy, ta mới thấu hiểu thật sự rằng: “Này con đây, con xin đến để thi hành thánh ý Cha” không phải lời nói suông, mà trở thành động lực, trở thành “lương thực” bồi dưỡng tâm hồn chúng ta.

Hôm nay, dưới ánh sáng của Lễ Truyền Tin, chúng ta cùng nguyện xin Thiên Chúa ban ơn đức tin sâu xa hơn nữa, đức ái nồng nàn hơn nữa, để ta can đảm như Mẹ Maria mà dâng Chúa một “tiếng vâng” trọn vẹn. Để rồi, khi chạm mặt những nghịch cảnh, nỗi sợ tương lai, những vấn nạn xã hội, môi trường, chiến tranh, dịch bệnh, lòng ta vẫn không lung lay, vì biết rằng “Đấng Toàn Năng” đang nắm giữ vận mệnh nhân loại. Và Mẹ Maria, Đấng đã từng trải qua mọi gian nan, sẽ luôn bầu cử, che chở để ta không đơn độc. Mẹ sẽ dắt tay ta, giúp ta từng bước tiến về phía trước, vẫn vững tin ngay giữa hiểm nguy, như Mẹ đã bước dưới chân thập giá của Con mình.

Sau cùng, giữa lòng cuộc sống, hãy để lời kinh “Kính Mừng Maria” trở nên nhịp thở, để mỗi lần ta thưa lên, ta sống lại giây phút Truyền Tin, sống lại sự hiện diện dịu dàng của Mẹ. Vì Mẹ là Mẹ chúng ta. Mẹ không bao giờ từ chối ai chạy đến. Mẹ cũng không lãng quên một linh hồn nào trên đường dương thế. Mẹ chỉ khẽ nhắc: “Hãy làm những gì Ngài bảo”, mà “Ngài” đây chính là Con Mẹ, Đấng Cứu Độ trần gian. Thật tuyệt diệu, phải không? Bao lâu trái đất còn xoay, con người còn thở, tiếng Mẹ vẫn thì thầm kêu gọi ta vâng phục Thiên Chúa. Ước gì chúng ta đáp lại tiếng gọi ấy trong ân sủng, để cùng Mẹ hát lên bài ca tạ ơn muôn đời.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã thay mặt nhân loại cất tiếng “xin vâng” với lòng tin tuyệt đối. Nhờ lời bầu cử của Mẹ, xin cho chúng con cũng can đảm và phó thác như Mẹ. Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ, luôn đặt Chúa làm trung tâm cuộc sống, vượt trên mọi nghi ngại hay sợ hãi. Và xin Mẹ, qua lời nhắn nhủ “Hãy làm tất cả những gì Ngài bảo”, hãy nắm lấy tay chúng con, đưa chúng con vào sâu trong mầu nhiệm của Con Mẹ, để rồi chính chúng con cũng trở nên những khí cụ bình an, những sứ giả loan tin mừng cứu độ cho thế giới hôm nay. Amen.

Lm. Anmai, CSsR

XIN VÂNG NHƯ MẸ

Kể từ khi cửa thiên đàng khép lại do lỗi phạm của Ađam và Evà, con người đã phải mang lấy thân phận khổ đau, luôn ngước mắt lên trời để trông mong ơn cứu độ. Hằng ngàn năm trôi qua, dân Do Thái nối tiếp nhau qua các thế hệ, vẫn một niềm khát khao và chờ đợi Thiên Chúa thực hiện lời hứa cứu độ đã được loan báo. Trong tấm lòng trung thành của Ngài, Thiên Chúa cũng không ngừng dõi theo nhân loại. Ngài đã đặt niềm hy vọng chung của cả trời và đất vào một trái tim bé nhỏ, trái tim ấy được Ngài gìn giữ và chuẩn bị cách âm thầm nhưng kỳ diệu. Đó chính là trái tim của Maria, một thiếu nữ xứ Galilêa, ngày ngày cầu nguyện xin Thiên Chúa đoái nhìn những thống khổ của dân Người.

Khi thời gian đã viên mãn, cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và nhân loại diễn ra dưới mái nhà Nagiarét. Sứ thần Gabriel được sai đến với nhiệm vụ trình bày ý định tuyệt vời của Thiên Chúa cho Maria, vì Ngài tôn trọng sự tự do nơi con người. Ngày xưa, ma quỷ đã đợi chờ sự ưng thuận của Evà để đẩy nhân loại rơi vào vòng tội lỗi và sự chết. Còn hôm nay, toàn thể vũ trụ – gồm cả Thiên Chúa lẫn nhân loại – đang hồi hộp chờ đợi tiếng “Xin Vâng” của Maria hầu khai mở công trình cứu độ. Lời đáp của Mẹ sẽ quyết định tất cả: nếu Mẹ nhận lời, cánh cửa ơn cứu độ sẽ được mở ra; nếu Mẹ chối từ, chương trình yêu thương của Thiên Chúa sẽ phải lùi lại. Thánh Bênađô đã khắc họa tâm tình này bằng những lời tha thiết: “Câu trả lời của Mẹ sẽ là ơn cứu độ của chúng con. Xin Mẹ hãy nói, hãy nói mau lên, bởi vì Ađam và các vị tổ phụ, còn ngồi trong bóng tối sự chết đang kêu cầu Mẹ. Cả chúng con nữa, cũng đang quỳ gối nài van Mẹ”.

Chính trong giây phút linh thiêng ấy, Đức Maria đã thốt lên: “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”. Lời trả lời vừa đơn sơ, vừa khiêm nhường, lại vừa cương quyết đã nối kết ý riêng của Mẹ với Thánh ý Thiên Chúa. Từ đây, Mẹ đón nhận sứ mạng cưu mang Con Thiên Chúa bằng một đức tin tuyệt đối, không tính toán, không điều kiện, sẵn sàng dấn bước cho kế hoạch yêu thương của Chúa được triển nở. Kể từ giây phút Mẹ nói lên tiếng Xin Vâng, tình yêu của Thiên Chúa bắt đầu thực hiện những kỳ công lạ lùng mà Ngài đã ấp ủ ngay từ thuở ban đầu.

Đúng vậy, lời Xin Vâng của Mẹ đã làm cho Con Thiên Chúa trở nên con của Mẹ. Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta (x. Ga 1,14). Lời Xin Vâng của Mẹ là sự đáp trả dứt khoát cho thái độ từ khước Thánh ý Thiên Chúa của Ađam và Evà ngày xưa. Từ giây phút ấy, Cựu Ước khép lại, Tân Ước bắt đầu; nhân loại được bước sang một giai đoạn mới chan chứa hy vọng. Lời Xin Vâng của Mẹ còn nói lên tâm tình hiếu thảo của một người con ngoan thảo trước lời mời gọi của Chúa Cha. Công trình cứu độ nhân loại chỉ có thể hoàn thành nhờ hai tình yêu nối kết: tình yêu từ phía Thiên Chúa và tình yêu nơi con người. Thiên Chúa yêu thương đến độ ban chính Con Một của Ngài, còn nhân loại thì phải mở rộng cõi lòng để đón nhận Người Con ấy. Thánh Gioan đã diễn tả điều này: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” (Ga 3,16). Như vậy, tình yêu của Chúa và sự đón nhận của con người mới hợp thành dòng chảy cứu độ.

Chúng ta nhận thấy, Thiên Chúa đã dùng cùng một phương tiện mà ngày xưa ma quỷ đã dùng. Khi xưa, ma quỷ tiếp cận và lôi kéo Evà để hủy diệt con người, thì nay, Thiên Chúa dùng một người phụ nữ – là Đức Maria – để lật ngược thế cờ, phục hồi ơn cứu độ cho trần gian. Evà trở thành khí cụ dẫn đến cái chết, còn Maria trở thành khí cụ đem lại sự sống. Evà kiêu căng mà muốn bằng Thiên Chúa, còn Maria khiêm nhường đáp thưa Xin Vâng. Evà tin vào lời mời mọc dối trá của ma quỷ, còn Maria tin vào lời chân thật của sứ thần Gabriel. Từ hai khuôn mặt này, chúng ta nhìn thấy một sự tương phản sâu sắc giữa thất bại và chiến thắng, giữa chỗ cũ đã đóng lại và khung trời mới mở ra.

Ngày nay, khi chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệm Truyền Tin, hình ảnh “Xin Vâng” của Đức Maria không chỉ dừng lại ở câu chuyện của hai ngàn năm trước, nhưng còn tiếp tục vang vọng và trở nên nguồn cảm hứng cho đời sống đức tin của chúng ta. Đã từng có một người mẹ hỏi con mình: “Trong Kinh thánh, con thích nhất câu nào?”. Đứa bé tình cờ lật đúng trang thuật lại cuộc Truyền Tin, rồi đôi mắt long lanh, nó trả lời: “Con thích nhất hai chữ ‘Xin Vâng’ của Đức Maria”. Thật ý nghĩa làm sao, bởi lẽ hai chữ ấy ngắn gọn nhưng chất chứa sức mạnh vô biên. Nhờ tiếng Xin Vâng của Mẹ, ơn cứu độ đã khởi đầu. Nhờ tiếng Xin Vâng, Tình yêu Thiên Chúa chảy tràn vào thế giới. Và cũng chính nhờ tiếng Xin Vâng, Mẹ dẫn đường cho chúng ta đến gần với Chúa Giêsu hơn.

Trong hành trình sống đức tin, chúng ta cũng được mời gọi để lặp lại hai tiếng Xin Vâng như Mẹ, để Thánh ý Thiên Chúa được thực hiện cách trọn vẹn. Lời Xin Vâng ấy không phải là một khẩu hiệu suông, nhưng đòi hỏi chúng ta phải kiên trì dấn thân. Thánh ý Chúa có thể tỏ lộ qua tiếng nói lương tâm, qua những huấn lệnh trong mười điều răn, qua lời dạy của Tin Mừng, qua các giáo huấn của Hội Thánh, hay qua những thúc đẩy âm thầm của Chúa Thánh Thần trong đời sống thường ngày. Mỗi khi đối diện với một chọn lựa, chúng ta phải tự vấn lòng mình: “Liệu đây có phải là điều Chúa muốn nơi tôi không? Tôi có dám can đảm đáp lại bằng một tiếng Xin Vâng dứt khoát như Mẹ Maria chăng?”. Và một khi đã thưa “Xin Vâng”, ta cũng cần kiên tâm thực hiện, cho dù đôi khi phải vượt qua biết bao thử thách, cám dỗ hoặc hy sinh lợi ích cá nhân.

Chiêm ngắm lời Xin Vâng của Mẹ, chúng ta sẽ khám phá ra sức mạnh diệu kỳ của sự khiêm nhường và tin tưởng. Mẹ Maria đã không đòi hỏi hay mặc cả với Thiên Chúa rằng: “Nếu con chấp nhận, Chúa ban cho con những gì? Con sẽ được vinh dự gì?”. Hoàn toàn không. Mẹ chỉ đơn thuần tín thác, phó dâng mọi sự trong tay Chúa, để chương trình yêu thương của Ngài tỏ hiện. Đức tin ấy không phải là một đức tin dễ dãi, ngược lại, nó được thử thách bằng hành trình cực kỳ gian nan. Từ biến cố Truyền Tin đến Bêlem, từ Bêlem tới Ai Cập, rồi về lại Nagiarét và cuối cùng là đứng dưới chân thập giá, Mẹ trải qua muôn vàn đau khổ. Thế nhưng, Mẹ vẫn trung thành với hai tiếng Xin Vâng thuở ban đầu. Nơi Mẹ, chúng ta thấy một trái tim chung thủy, gắn bó với Chúa Giêsu dù lúc vinh quang hay lúc tủi nhục. Nơi Mẹ, chúng ta cảm nhận trọn vẹn hình ảnh “người tôi tớ trung tín” hoàn tất ý định của Chúa Cha.

Hãy nhớ lại lời Mẹ nói trong tiệc cưới Cana, khi rượu đã cạn và Mẹ bảo những người giúp việc: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Ở đây, Mẹ Maria không chỉ bày tỏ một lối giải quyết thông minh, nhưng còn nêu lên một huấn lệnh mang tính cốt lõi cho đời sống Kitô hữu: tuân theo ý Chúa trong mọi sự. Mẹ bảo chúng ta: “Người nói gì, hãy làm”. Chúa Giêsu vẫn đang “nói” với mỗi người chúng ta hôm nay qua Lời Chúa, qua việc cầu nguyện, qua tâm hồn khao khát chân lý, và qua cả những người nghèo khổ chung quanh. Vấn đề là liệu chúng ta có mở lòng đón nhận, lắng nghe, rồi can đảm thi hành điều Ngài muốn hay không. Vâng lời Chúa Giêsu chính là một hình thức tái diễn tiếng Xin Vâng của Mẹ, để tiếp tục làm triển nở hoa trái ơn cứu độ giữa lòng thế giới.

Nhớ đến hành trình của Mẹ, ta cũng nhìn lại chính bản thân. Có thể, trước những khó khăn trong công ăn việc làm, trong trách nhiệm bổn phận gia đình và xã hội, ta đôi lúc nản lòng, muốn buông xuôi. Có thể, trước những cám dỗ của chủ nghĩa hưởng thụ, của những lợi ích vật chất, chúng ta dễ dàng nói “không” với Thiên Chúa mà không hay biết. Biết bao lần ta từ chối sống công chính, từ chối hy sinh, từ chối lắng nghe tiếng gọi của ơn gọi dâng hiến. Biết bao lần ta chần chừ trước mệnh lệnh yêu thương tha nhân, trước lời kêu gọi dấn thân phục vụ giáo xứ, cộng đoàn. Thậm chí, có khi chúng ta e ngại để cho lòng mình gắn bó mật thiết với Chúa qua việc cầu nguyện, tham dự Thánh lễ hoặc lãnh nhận Bí tích Hòa Giải. Mỗi lần như vậy, lời Xin Vâng của Mẹ lại vang lên, như một lời mời gọi chúng ta can đảm và khiêm nhường hơn.

Trong một thế giới đầy biến động hôm nay, người tín hữu còn được mời gọi “Xin Vâng” với những yêu cầu cấp thiết về công bằng, hòa bình, bảo vệ môi trường và thăng tiến phẩm giá con người. Tiếng Xin Vâng của Mẹ ngày trước thúc giục ta không dừng lại ở những việc đạo đức cá nhân, nhưng phải dẫn tới hành động cụ thể, để Tin Mừng tình yêu của Chúa Giêsu được gieo rắc và nảy nở. Cái gật đầu “Xin Vâng” với Chúa đòi hỏi ta biết khước từ sự ích kỷ để dấn thân vì thiện ích chung. Khi ta chịu lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần và bắt tay hành động, thì chính trong dòng chảy đời thường, Nước Trời sẽ lớn dần, và gương sáng của người Kitô hữu sẽ biến đổi nhân tâm.

Hãy ngước nhìn Mẹ Maria. Từ lúc thưa “Xin Vâng” cho đến suốt cả cuộc đời, Mẹ luôn ở trong tình trạng “vâng phục đức tin”, đón nhận mọi sự từ bàn tay Quan Phòng. Khi chịu cảnh cơ cực tại hang đá Bêlem, khi vội vã bồng bế Hài Nhi trốn sang Ai Cập, khi một mình lặng lẽ ở lại trong ngôi nhà đơn sơ ở Nagiarét, và ngay cả trong những giờ phút nghẹn ngào bên thánh giá Chúa Giêsu trên đồi Canvê, Mẹ vẫn một lòng “Xin Vâng”. Cuộc đời của Mẹ chính là một chứng tá sống động cho thấy: hạnh phúc thật đến từ chỗ ta để cho Thiên Chúa hành động và uốn nắn theo ý Ngài, chứ không phải ép Chúa phải làm theo ý mình. Mẹ đã hoàn toàn để Chúa dẫn dắt, và vẻ đẹp kỳ diệu của cuộc đời Mẹ cũng chính là vẻ đẹp của người “nữ tỳ” được tôn vinh, người “đầy ơn phúc” đã cưu mang và sinh hạ Chúa Cứu Thế.

Trong tâm tình đó, chúng ta được mời gọi hãy noi gương Mẹ Maria, thưa với Chúa hai tiếng Xin Vâng, dù ở hoàn cảnh nào, dù công việc lớn hay việc nhỏ, dù thuận lợi hay khi gặp nghịch cảnh. Thưa “Xin Vâng” ở đây không chỉ là chấp nhận, mà còn là một sự cộng tác tích cực, dấn thân trọn vẹn với niềm xác tín rằng Chúa luôn đồng hành và củng cố chúng ta. Tiếng “Xin Vâng” của chúng ta đối với Lời Chúa, với Huấn quyền Hội Thánh và với nhu cầu của tha nhân, cũng sẽ trở thành dấu ấn của một tâm hồn yêu mến. Nhờ ơn Chúa, tiếng “Xin Vâng” ấy có sức lan tỏa để biến đổi môi trường sống quanh ta, giúp gia đình thêm thuận hòa, cộng đoàn thêm gắn kết, xã hội thêm công bằng, nhân ái.

Chúng ta hãy nhìn lại một lần nữa: tiếng Xin Vâng của Mẹ Maria khởi đầu cho một trang sử mới, trang sử của niềm vui cứu độ. Và ngày hôm nay, dưới ánh sáng Phục sinh, chúng ta được mời gọi can đảm “theo chân Mẹ cất tiếng xin vâng” trong chính hành trình đức tin của mình. Hãy để cho Lời Chúa thấm nhuần và hướng dẫn cuộc đời, hãy để Chúa Thánh Thần làm việc trong lòng ta. Hãy sống niềm vui khiêm tốn trong phục vụ, can đảm vác thập giá, biến mỗi hành động dù nhỏ bé thành một nhịp cầu yêu thương. Như thế, đời ta sẽ là một trang tiếp nối của Tin Mừng Truyền Tin, để Chúa Giêsu tiếp tục được sinh ra giữa thế giới còn ngổn ngang bao nỗi lo âu và mong chờ.

Vậy giờ đây, mỗi khi cầu nguyện, hãy xin Mẹ giúp ta biết mở lòng đón nhận Thánh ý Chúa, để chúng ta có thể cất tiếng thưa “Xin Vâng” một cách thiết tha và trọn vẹn. Hãy nghĩ đến tấm lòng khiêm nhu của Mẹ, nghĩ đến niềm phó thác tuyệt đối của Mẹ, và xin Mẹ chuyển cầu cho chúng ta có cùng một tấm lòng như thế. Có như vậy, ta mới có thể gắn bó sâu sắc với Chúa Giêsu, để Chúa thực sự nên lẽ sống và niềm hy vọng của cuộc đời. Đó cũng là cách chúng ta thực hiện mệnh lệnh của Mẹ tại Cana ngày xưa: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”. Chắc chắn, Chúa Giêsu sẽ không ngừng ban ơn, biến những chum nước tầm thường trong đời ta thành rượu ngon của niềm vui và ơn cứu độ.

Hôm nay, khi chúng ta tụ họp nơi đây, cùng nhau suy gẫm về mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, về tiếng Xin Vâng diệu kỳ của Mẹ Maria, ước gì lòng chúng ta cũng rộn lên khúc ca tạ ơn. Bởi lẽ, nhờ Mẹ Maria quảng đại cộng tác với Thiên Chúa, mà chúng ta có được niềm vui ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô. Và ước gì ta học được nơi Mẹ cách lắng nghe, suy niệm, rồi mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa, hầu cuộc sống mỗi ngày đều trở thành lễ dâng cho tình yêu và Vinh Quang Thiên Chúa. Chúng ta nguyện xin Mẹ đồng hành, hỗ trợ và hướng dẫn, để mọi bước đường ta đi đều thấm đậm đức tin, đức cậy và đức mến.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã nói lên tiếng Xin Vâng để thế giới được đón nhận Đấng Cứu Độ. Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ, xin cho chúng con cũng biết theo chân Mẹ cất tiếng Xin Vâng với Chúa trong từng phút giây cuộc đời. Xin Mẹ dạy chúng con sống khiêm nhường, sống tin tưởng, sống phục vụ và quảng đại, để chương trình yêu thương của Chúa được thực hiện qua chúng con. Bởi vì chúng con tin chắc rằng: chỉ khi bước theo Mẹ, bước theo con đường vâng phục Thánh ý, chúng con mới được nếm trải hạnh phúc đích thực của những người con thảo. Xin Mẹ che chở và dẫn chúng con đến với Chúa Giêsu, nguồn suối của ơn cứu độ muôn đời. Amen.

Lm. Anmai, CSsR

Back To Top